CHƯƠNG
14
Không tính những tên quản giáo hạch
hỏi lý lịch, tôi đã qua tay 5 chấp pháp và gã này là 6. Thân phận Kiều tiếp
khách chơi hoa không khổ bằng thân phận nhà văn tiếp khách chấp pháp.
Xưa sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dầy dạn phong sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy
thân.
Có phải Nguyễn Du đã tiên tri thân
phận những Vũ Hoàng Chương, Doãn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền,
Phan Nhật Nam, thân phận những nhà văn, nhà thơ trong ngục tù cộng sản? Ôi,
biết bao câu Kiều nó vận vào cái "đoạn đường ai có qua cầu mới hay"
của chúng tôi.
Bây giờ bình đã vỡ rồi
Lấy thân mà trả nợ đời cho xong
Nợ đời, soạn giả tuồng cải lương Mộc
Linh đã diễn tả 5 câu vọng cổ ở khu A. 5 câu thôi, anh bị ho ói máu nên phải
dang dở. Trong 5 câu ấy có đoạn:
...."Than ôi, trời đất bao là
mà sao ta không có chỗ đứng, lại phải xui chi tới cảnh đoạn trường...Nợ chẳng
vay ai mà nay phải trả cho đời". (Văn chương là cái nợ. Nghệ thuật là cái
nợ. Nợ văn chương trả ở nhà tù! Và nhà nghệ sĩ biến thành nàng Kiều, dạt trôi
đề-lao, khám lớn, trại tập trung. Cuộc sống vốn hiếm Từ Hải, hiếm cả đến Thúc
Sinh. Chỉ rặt lũ chấp pháp cộng sản chở chất thù vặt. Chúng dập vùi tới cả phẩm
cách con người. Chủ nghĩa nào ưu việt? Đâu là đỉnh cao trí tuệ? Nơi mô là cái
nôi của loài người? Bạn ơi, nhân loại ơi, cái nôi của loài người, đỉnh cao trí
tuệ, chủ nghĩa ưu việt tập trung ở nhà tù giam nhốt, đầy đoạ các nhà văn, nhà
thơ. Nhà văn, nhà thơ là những kẻ chung thân bất mãn với hiện tại. Trần Dần
viết:
Chẳng thể rúc kèn cũ rích
Vác loa mồm kêu:
"Hiện tại rất thiên đường
không
thiên đường chúng ta
là nối đuôi nhau
vô tận thiên đường
đi mãi
chẳng bao giờ thoả
Không có hiện tại nào là thiên đường
cả. Và cả khi hiện tại đã là thiên đường, vẫn cần thiết có thiên đường khác rực
rỡ hơn. Bổn phận của nhà văn là không ngừng phản kháng hiện hữu. Để thiên đường
không đứng lại. Để thiên đường không chết. Để thiên đường tiến lên một thiên
đường khác tuyệt vời gấp bội. Sự phản kháng hiện hữu của nhà văn đã bị xã hội
cộng sản chụp mũ chống cộng sản. Nhà văn chống mọi bất công, mọi độc tài, mọi
áp bức, mọi bóc lột, mọi sự xúc phạm quyền sống của con người. Nhà văn đòi hỏi
tự do, dân chủ, công bình, hạnh phúc tuyệt đối cho con người. Bản chất của nhà
văn là phản động. Nó phản động trong bất cứ xã hội nào, dưới bất cứ chủ nghĩa
nào, ở bất cứ nơi nào nhân quyền bị tước đoạt, nhân phẩm bị chà đạp. Sự phản
kháng của nhà văn là ước mơ của loài người. Nó làm thăng hoa cuộc sống. Nó gây
cảm hứng leo lên ngọn đỉnh chân thiện mỹ. Chỉ những kẻ ngu xuẩn, bịp bợm và
bệnh hoạn nghĩ rằng hiện tại què quặt của mình đã là thiên đường vĩnh cửu mới
dùng quyền lực khỏa lấp sự phản kháng của nhà văn. Chỉ có cộng sản mới hèn mọn
chụp mũ nhà văn, kết tội nhà văn và giam nhốt nhà văn. Phải vinh tôn những nhà
văn phản động và phải bỏ tù bọn bồi bút nịnh bợ "rúc kèn cũ rích, vác loa
mồm kêu: hiện tại rất thiên đường". Đó mới là ưu việt, đỉnh cao trí tuệ.
Tại sao? Vì bằng phản kháng hiện tại, nhà văn đã thắp ước mơ như ngọn đèn dẫn
đến tương lai, dẫn đến những tương lai vô tận, những thiên đường đích thực của
loài người. Vì bằng bồi bút nịnh bợ, bằng yên phận hòn bi, nhà văn đã rúc đầu
xuống vực thẳm tội ác. Hà Nội định nghĩa bồi bút:"Bồi bút là kẻ viết sách
báo làm tôi tớ cho thực dân đế quốc" – Văn Tân, Từ điển Việt Nam, 1976 –
Cộng sản Việt Nam ở Paris đề nghị một định nghĩa:"Bồi bút là kẻ viết sách
báo làm tôi tớ cho bọn cường quyền" – Nguyễn Trọng Nghĩa, Đoàn kết 4-1987.
Bọn cường quyền hiện hữu ở Việt Nam là cái gì? Cộng Sản! Có lẽ, nên định nghĩa:
“Bồi bút là kẻ viết sách báo làm tôi tớ cho thực dân, đế quốc và cộng sản”.
Nhưng định nghĩa chính xác nhất là: Bồi bút là đám viết sách báo đứng về phía
bọn thống trị. Với nhà văn chân chính, thống trị là đối tượng phản kháng hàng
đầu. Nơi nào không có đối lập chính trị, thống trị man rợ, ghê tởm, cần thiết
trừ khử. Việt Nam đang là nơi ấy. Và người ta dễ dàng tìm ra sự bồi bút ở hai
câu định nghĩa của bồi bút. Họ không dám đụng đến cộng sản và giai cấp thống
trị mới ở xã hội cộng sản. Xã hội cộng sản chấp nhận bồi bút, nuôi dưỡng bồi
bút và bỏ tù cả nhà văn phản kháng lẫn thi sĩ chỉ viết thơ tình.
Tên công an chấp pháp số 6 dẫn tôi
sang khu B, chỗ tôi đã mạn đàm với tên chấp pháp rỗ hoa. Tôi không muốn chế
diễu họ. Rẻ tiền lắm. Nhưng bạn cần hiểu rằng, chẳng có tên công an chấp pháp
nào giới thiệu tên thật hay bí danh với bạn cả.. Trừ Ba Trung là thằng nằm vùng
vây co. Nên tôi đành phải lấy “đặc điểm” của họ mà đặt biệt danh để dễ so sánh.
Công an chấp pháp số 6, dân miền Bắc, mặt mũi sáng sủa, người vừa phải. Hắn ta
có nụ cười dễ gây cảm tình. Câu mở đầu của hắn:
- Anh có vẻ thất vọng về chúng tôi,
phải không, anh Duyên Anh?
Tôi thản nhiên:
- Tôi không thất vọng, cũng chẳng hy
vọng gì các anh.
Hắn cười.
- Tại sao?
Tôi đáp:
- Tôi đã hiểu tôi không còn quyền
thất vọng và hy vọng.
Hắn khẽ lắc đầu:
- Đừng cay đắng, anh Duyên Anh.
Hắn mời tôi hút thuốc Điện Biên. Nhả
nạm khói, hắn nhìn tôi bằng cặp mắt chan chứa cảm thông:
- Với tôi, anh muốn ngồi kiểu nào,
tùy ý.
Tôi khựng lại. Chúng nó đã trao đổi
với nhau về tôi. Thằng số 5 đấm tôi. Thằng số 6 xoa bóp.
- Anh bớt ghẻ chưa?
- Chưa, anh ạ!
- Nó sẽ phá tung một lượt. Rồi khỏi
hẳn. Chị ấy tiếp tế bình thường chứ?
- Cám ơn anh.
- Trường hợp của anh thật oan
nghiệt. Anh chống Mỹ, chống Ngụy rồi sợ Mỹ Ngụy trả thù, anh phải chống cộng
sản.
Tôi không muốn cãi. Tôi đã chống
cộng sản bằng Hoa thiên lý trước khi chống chính sách Mỹ ở Việt Nam và bọn
thống trị bù nhìn.
- Tại sao anh chống lung tung thế?
Chống tứ phía, phía nào anh sống?
- Tôi vẫn sống.
- Thực tế một chút, anh Duyên Anh.
Giá anh đừng chống cộng, anh đã được biểu dương rồi.
Tôi đã nghe Ba Trung, đã nghe tên
chấp pháp xứ Nghệ nói cái luận điệu này. Vẫn luận điệu gai góc mà buồn tẻ ấy,
chấp pháp số 6 nhai lại. La raison du plus fort est toujours la meilleure. Thi
hào La Fontaine đã để lại cho loài người một câu thơ trở thành chân lý vĩnh
cửu. Khi trái đất còn quyền lực, còn ngục tù; còn lệnh bắt, còn cai ngục và còn
tù nhân, chân lý đó không thay đổi. Ông Hồ Chí Minh là người cảm thầm “lý lẽ
của kẻ mạnh nhất”. Ổng ta hiểu “vĩ nhân có thể chết bởi cái gai”, ông ta hiểu
“anh hùng có thể chết ở cái lỗ chân trâu”. Và ông ta có triết lý sống đời tù
bình thường: Để chúng dắt đi tựa trâu bò. Hạnh phúc cho ông Hồ Chí Minh là ông
đã không được sống đời tù cộng sản. Nếu đã nằm nhà tù cộng sản, ông không trở
thành “cha già dân tộc”, không trở thành “vĩ nhân”. Cộng sản đã là vĩ nhân, đã
là anh hùng. Họ độc quyền anh hùng vĩ nhân. Bạn khó lòng thành vĩ nhân, anh
hùng tù ngục cộng sản. Ở nhà tù cộng sản, nhất là nhà tù dành cho tù nhân của
tư tưởng, của lương tâm, bạn sẽ bị đối xử tồi tệ hơn trâu bò. Bởi vì, ngoan
ngoãn “tựa trâu bò” rồi sẽ thành lãnh tụ vĩ đại. Kinh nghiệm ở tù của Hồ Chí
Minh là ánh sáng quang vinh chiếu rọi khắp nhà tù cộng sản. Phải bắt tù nhân
lửng lơ giữa người và thú vật. Phải diệt nhân tính của tù nhân. Và, như thế, sự
đọa đày mà tù nhân cam chịu không hun đúc nó nên anh hùng. Nó sẽ chỉ loay hoay
quanh nỗi đói, nỗi khổ, nỗi nhớ nhà. Nó sẽ chỉ loay hoay quanh niềm sợ hãi,
niềm mong đợi ngày được tha. Trong những loay hoay bi thảm của nó, thẩy cho nó
chút ân huệ toan tính, bơm cho nó chút hy vọng gian dối, nó sẽ níu lấy ân huệ
và hy vọng đê tiện đó, bảo vệ ân huệ và hy vọng đó một cách rất đê tiện. Từ cái
ân huệ toan tính, cái hy vọng gian dối ban cho một tù nhân tạo thành những ngờ
vực, những thù hận, những đề phòng giữa các tù nhân. Cai ngục mỉm cười, rao
giảng phúc âm: “Các anh không thương các anh thì ai thương các anh”. Tù nhân
ghét bỏ tù nhân hơn cả cai ngục ghét bỏ tù nhân. Riết rồi, tù nhân “thương yêu”
cai ngục! Bản chất và hiện tượng. Hai tuyệt chiêu nằm trong bí kíp cộng sản đã,
chẳng những cấy sinh tử phù vào tế bào tù nhân, mà còn cấy vào cả tim phổi quần
chúng. Hiện tượng lúc nào cũng bị nghiêm khắc phê bình. Hiện tượng thủ tiêu tập
thể 1 triệu 500 ngàn dân lành bị sửa sai. Tổng bí thư Trường Chinh tạm sang nắm
ghế Chủ tịch Quốc hội, vẫn là ủy viên Bộ chính trị. Để bản chất đúng và tốt và
chân lý. Hiện tượng và bản chất hư hư thật thật. Đảng nhân đạo, khoan dung.
Đảng là bản chắt. Cán bộ vô nhân đạo, khắc nghiệt. Cán bộ là hiện tượng. Chấp
pháp số 5 là hiện tượng. Chấp pháp số 6 là bản chất. Hiện tượng dọa nạt. Bản
chất vuốt ve. Cả hai kết hợp lừa bịp loài người. Bản chất hay hiện tượng thì
cũng cứ là cộng sản và do họ nói và đều là lý lẽ của kẻ mạnh. Dẫu có gai góc
buồn tẻ một nhịp điệu nhai lại, chớ dại dột bịt tai. Càng không nên nổi giận.
“Tư tưởng thể hiện hành động”. Móng vuốt chịu khó dấu đi. Chìa ra là bị chặt
đứt liền. Mà chìa móng vuốt với ai?
Tù nhân ở các nhà tù cộng sản có hai
lần bầy tỏ thái độ anh hùng. Lần thứ nhất: Làm việc với công an chấp pháp. Bạn
sẽ ngồi trong căn phòng chỉ có bạn với chấp pháp. Đừng ngại, không có máy ghi
âm bí mật đâu. Chấp pháp sẽ hạch hỏi bạn, sẽ mắng mỏ bạn, sẽ chửi bới bạn, sẽ
đập bàn la lối. Bạn nổi máu anh hùng, bạn dậy lòng bất khuất, bạn ăn thua đủ
chấp pháp. Nó tống bạn vào cachot, còng bạn đủ kiểu. Nó cho bạn ăn uống theo
tiêu chuẩn kỷ luật. Nó cấm vợ con bạn thư từ, tiếp tế. Bạn sẽ chết thảm ở
cachot. Lịch sử không hề biết nên sẽ chẳng bao giờ viết. Bạn chết rồi thì chỉ
còn một người biết. Là chấp pháp. Nó không ngu gọi bạn là anh hùng. Biên bản...
chết của bạn sẽ ghi: Chết bệnh. Nếu bạn không chết, bạn trở về phòng, bạn cũng
không dám khoe thành tích. Bạn tù thương bạn lắm. Ngàv thăm nuôi, bạn mỏi mắt
đợi quà. Bạn đã bị cúp dài hạn. Anh em ngưỡng mộ vị anh hùng, một dúm mì, một
trái chuối, một miếng thịt. Một lần thôi nhé! Chỉ một lần. Nếu bạn xuống máu
anh hèn, bạn lạy lục chấp pháp, khóc lóc thảm thê, vẫn chỉ bạn và chấp pháp
biết. Chẳng ai chứng kiến cả. Không có chứng nhân ở phòng chấp pháp. Anh hùng
và anh hèn đồng hạng. Lần thứ hai: Bạn ra tù, bạn vượt biên hay đi chính thức
qua Mỹ qua Ảu, bạn sẽ viết hồi ký. Lúc ấy bạn phong bạn làm anh hùng, bất
khuất. Những thằng hèn trong hồi ký của bạn là những thằng đã không cho bạn cục
đường, muỗng nước mắm hay trái chuối, dúm mì. Những thằng hèn trong hồi ký của
bạn còn là những thằng bạn ghét dù bạn chưa hề sống chung với nó ở tù. Bạn sẽ
“nghe kể, nghe đồn” vô tội vạ. Yên ổn nói cái ta anh hùng và cái người anh hèn.
Vì rằng, chỉ có ta với chấp pháp biết rõ cái ta. ít khi ta dám lôi cái ta hèn
hạ ra phỉ báng. Ta lôi cái người hèn hạ ra phỉ báng để khoả lấp cái ta hèn hạ
thì rất nhiều khi. Sự ấu trĩ, dần dà, bị khám phá. Và cái ta vô lại hiện nguvên
hình.
Tôi biết có thằng vô liêm sỉ, một
bồi bút trơ trẽn là Thanh Vân, tác giả cuốn sách vỏ tôm, nhan đề Sống như anh,
diễn tả cuộc đời “anh hùng” Nguyễn Văn Trỗi. 1 Bồi bút Thanh Vân ngu xuẩn và hạ
cấp đến độ cho Trỗi chửi nhau tay đôi với thẩm vấn viên của Cảnh Sát Đặc Biệt.
Và vợ y, "chị Quyên trung hậu đảm đang" cũng vào Tổng Nha sa sả
nguyền rủa "tay sai Mỹ Ngụy"! Chúng ta có thể viết lại Sống như anh,
diễn tả trung thực, rất trung thực đoạn anh hèn Văn Trỗi ở phòng thẩm vấn. Anh
Trỗi đã chết. Người thẩm vấn anh, có thể, đã chết hay đang nằm tù. Chứng nhân
tuyệt tích, cần diệt nhân chứng. Hoá cho nên, anh hùng và anh hèn trên sách vở
và trong cả lịch sử đều tùỵ thuộc lòng yêu mến và sự thù hận, tùy thuộc mục
đích tuyên truyền chính trị và tham vọng đè hèn. Và luôn luôn cần xét lại cả
lịch sử, nhất là lịch sử viết bởi những anh thiếu tư cách.
Đến anh hùng Nguyễn văn Bé mới tức
cười. Anh bị bắt ở một trận đánh tại Định Tường, xin hồi chánh, phục vụ Cảnh
sát quốc gia. Hà Nội suy tôn Nguyễn Văn Bé là anh hùng, truy điệu liệt sĩ Bé rỉ
rả trên Đài Tíếng Nói Việt Nam. Anh Bé nghe đài. Anh Bé hoảng sợ. Anh Bé yêu
cầu Cảnh sát quốc gia đổi họ thay tên và tạo lý lịch mới!
Ôi, anh hùng và anh hèn của thời đại
khốn kiếp hôm nay, nghĩ mà buồn nôn. Càng buồn nôn hơn khi thấy anh nhanh chân
tình nguyện đóng tiền trình diện học tập cải tạo luận anh hùng, anh hèn bị công
an ập vào tư gia, còng tay, bịt mắt dẫn đi. Nếu bỏ anh hùng để chỉ luận anh hèn
thì anh chưa đến lượt mình (sĩ quan giải ngũ mà) đã nhanh chân nộp tiền xin
trình diện học tập cải tạo tư tưởng với triết lý sống đơn giản “nhanh chân có
lời” thì anh này hèn rõ rệt. Nhưng anh này âm mưu xóa dấu vết hèn hạ của mình
bằng cách luận tội người khác hèn hạ. Rốt cuộc, sự hèn hạ của anh ta cứ ám ảnh
anh ta. Và cái cường độ của sự phô diễn anh hùng tự phong, rốt cuộc, là một tự
khai thành khẩn “ăn vụng thịt nhà bếp, ăn cắp cơm cháy, ăn tranh phần cám heo”
và ngồi nhà “vẽ chân dung Hồ chủ tịch" để trốn tránh lao động! Bạn đã từng
biết anh này là ai không? Tôi sẽ định không nêu tên anh ta vì sợ anh ta nổi
tiếng. Như vậy, tôi mang tội đố kỵ tài năng. Vậy để anh ta nổi tiếng. Thế thì
anh ta là Tạ Tỵ đấy. Anh ta đã “nghe đồn” mà bảo tôi làm “ăng-ten" trong
tù. Tôi không nghe ai đồn cả. Tôi viết đúng lời tự thú công khai của anh ta. 2
Và anh Tạ Tỵ đã công khai tự nhận rằng, ở trại cải tạo, anh ta đã “ăn vụng” và
“ăn cắp.” Có lẽ, anh ta sẽ nổi tiếng, sẽ đi vào lịch sử văn học, không phải do
tài năng hội họa, văn chương, thi ca. Mà do “ăn cắp” và “ăn vụng.”
Tôi không là anh hùng, không bao giờ
là anh hùng. Cũng chẳng dám ôm mộng anh hùng. Làm anh hùng khổ lắm. Thường thì
anh hùng chết rất đẹp và rất thảm. Và chết xong, anh hùng bị khai thác triệt
để. Đó là anh hùng đích thực. Anh hùng giả vờ khổ hơn.
Anh hùng là anh hùng rơm
Cho một mồi lửa hết cơn anh hùng
Tôi chưa là anh hèn. Nhưng để bị bắt
bỏ tù, ghẻ kềnh ghẻ càng, xin ngồi nghiêng chấp pháp từ chối, bắt ngồi nghiêm
chỉnh, bị tống vào cachot không dám cãi, mạn đàm không ương ngạnh, lý luận...
là hèn. Thì tôi đã hèn. Tiền nhân đã thông cảm tuyệt đối với những kẻ sa cơ
thất thế.
Anh hùng như thể khúc lươn
Khi cuộn thì ngắn, khi vươn thì dài.
Biết dấu nanh vuốt lúc nào, biết
chìa nanh vuốt lúc nào, đó là cái trí của anh hùng. Cựu ước kinh ghi chép: “Có
một thời lên tiếng và một thời im lặng”. Khi không thể lên tiếng nói dõng dạc,
nên im lặng hơn là nói lảm nhảm. Tân ước, Jésus dạy: “Đừng chống cự kẻ ác”.
Phải, đừng chống cự kẻ ác khi mình nằm trong tay nó..
Tôi rất thích những câu ca dao miền
Nam này:
Phượng hoàng gẫy cánh hẩm hiu
Sa cơ thất thể phải theo đàn gà
Bao giờ mưa thuận gió hoà
Thay lông trổ mã lại ra phượng
hoàng.
Tiền nhân đã an ủi “chim quyên xuống
đất ăn trùn”. Người đời xưa thương người đời sau là vậy. Theo tôi, người ta nên
luận về lẽ sống chết hơn là luận anh hùng trong thời đại không hề có anh hùng.
Hồ Chí Minh là anh hùng của Việt Nam cộng sản, lại là gian hùng của Việt Nam
quốc gia. Ngô Đình Diệm là anh hùng của Việt Nam Thiên Chúa giáo, lại là anh
hèn của Việt Nam Phật giáo, anh tay sai đế quốc của Việt Nam cộng sản. Trần Văn
Bá là anh hùng của ông Lê Quốc Túy, lại là anh thường của ông Hoàng Cơ Minh.
Vân vân... Ở tù cộng sản, khôn chết sớm, dại chết muộn, biết thì sống ngất ngư.
Sống dễ hay chết dễ? Chết khó hay sống khó? Đông Chu Liệt Quốc có đoạn luận về
lẽ sống chết như vầy:
Trình Anh và Công Tôn Cửu Chử cùng
là gia nhân nhà họ Triệu. Khi Đỗ Ngạn Giả nắm quyền, xui vua Tấn diệt trung
thần. Gia đình họ Triệu (Triệu Thuẫn phò Trùng Nhĩ phục quốc) bị giết hết. Một
nàng dâu họ Triệu là công chúa, mang bầu chạy về cung trốn cuộc tàn sát. Công
chúa hạ sinh một hài nhi đặt tên là Triệu Vũ. Đỗ Ngạn Giả hay tin, nhưng còn nể
vua, chưa dám xông vào cung. Trình Anh và Công Tôn Cửu Chử bàn nhau cứu giòng
máu cuối cùng của họ Triệu, vị thầy thuốc tín cẩn được mời vào thăm bệnh cho
công chúa rồi bỏ hài nhí vào giỏ xách ra.
Công Tôn Cửu Chử hỏi Trình Anh:
- Sống để nuôi con chủ chờ ngày trả
hận khó hay chết để tỏ lòng trung thành với chủ khó?
Trình Anh đáp:
- Sống khó.
Công Tôn Cửu Chử nói:
- Vậy nhà ngươi sống, còn ta chết.
Bèn lập mưu sống và chết. Đúng lúc
công chúa hạ sinh cậu bé Triệu Vũ, vợ Công Tôn Cửu Chủ cũng hạ sinh một nhóc
tì. Trình Anh làm “ăng ten” đi báo Đỗ Ngạn Giả rằng Công Tôn Cửu Chử dấu hài
nhi họ Triệu. Đỗ Ngạn Giả vây nhà Công Tôn Cửu Chử. Công Tôn chỉ mặt Trình Anh
nguyền rủa tội lừa thầy, phản bạn, “ăng ten”. Đỗ Ngạn Giả đâm chết Công Tôn Cửu
Chử, quật nát hài nhi, giết cả nhà Công Tôn Cửu Chử. Nhở đó, Trình Anh mới đem
Triệu Vũ xa kinh thành, nuôi dưỡng, chỉ dạy. Sau này, Triệu Vũ diệt Đỗ Ngạn
Giả, khôi phục họ Triệu.
Lẽ sống chết ở đây. Tôi không nuôi
tham vọng trả thù ai. Tham vọng của tôi là viết một cuốn sách có ý nghĩa cho
đời mình và trả lời câu nói miệt thị của cộng sản “thế giới đâu đã đọc sách của
các anh”. Và tôi cần sống. Giá nào tôi cũng phải sống. Cách nào tôi cũng phải
sống. Và tôi vẫn sống.
Tôi dập điếu thuốc:
- Ở tù khó mơ mộng lắm, anh ạ!
Chấp pháp số 6 gật gù:
- Tại anh không thích mơ mộng thứ
anh mơ mộng. Anh mơ mộng viển vông nên anh thiếu thực tế.
Hắn gợi ý:
- Bồn Lừa là nhân vật lý tưởng của
giai cấp. Bố nó là công nhân. Nó thông minh trùm lấp bọn con cái tư sản. Nó tài
năng xuất chúng. Bồn Lừa, cuốn truyện tốt. Đổì mầu cờ. Không, viết rõ rệt cờ tổ
quốc là cờ tổ quốc của chúng ta, thêm giai cấp tính cho Bồn lừa, cuốn sách hoàn
toàn. Chúng ta cần nhân vật tuổi thơ vô sản thần tượng..
Hắn nhìn tôi:
- Liệu anh còn viết nổi những cuốn
như Bồn Lừa?
Không thèm nghe tôi trả lời, hắn ngó
đồng hồ, đứng dậy:
- Tôi sẽ làm việc với anh sau.
Thế đó, chấp pháp số 6 làm việc với
tôi thật ngắn ngủi. Hắn đưa tôi về 1 C-1 và không tống tôi vào cachot.
--------------------------------
1 Xin đọc thêm Thời của đàn bà. cùng
tác giả. Nam Á Paris xuất bản.
2 Tạp chí Ngày Nay, xuất bản ở
Wichita, Hoa Kỳ, số 46, thảng 5-1985.
CHƯƠNG
15
Hôm sau, vẫn ở phòng chấp pháp khu
B, tôi làm việc với chấp pháp số 7. Tôi... đi khách lần thứ bẩy. Chấp pháp số 7
giống hệt tên lái buôn thô lỗ. Mà tôi, nàng Kiều chưa thể chuyên nghiệp.
- Hôm nay anh viết tự khai.
- Tôì đã viết bên Sở hai lần.
- Sở là sở, Trại là trại. Với Trại,
mọi chuyện bắt đầu.
- Tôi đã viết thêm một lần ở Trại.
- Anh chưa làm việc với tôi.
Chấp pháp số 7 móc thuốc Vàm Cỏ và
hộp diêm Samasa đặt trên bàn:
- Anh tự do hút thuốc. Hết thì sẽ có
thêm. Anh được uống cà-phê. Lát nữa, quản giáo đem tới.
Từ nửa tháng nay, đề lao cấm chỉ
cà-phê, trà. Vì có phòng bị phát hiện nấu nước sôi bằng lon sữa bò và túi ni
lông bện lại nhóm lửa. Cà-phê, trà bị cấm. Sữa đặc bị khui ra đổ vào keo nhựa
hay túi ni-lông rồi mới cho vô phòng. Ở tù phiền lắm. Một người vi phạm nội quy,
ngàn người vạ lây. Cách mạng có dịp diễn tả sự tử tế: “Chúng tôi không cấm đoán
các anh, mọi khó khăn do chính các anh tạo ra”.
Chấp pháp số 7 chưa phát giấy bút.
Hắn... mạn đàm:
- Tôi nhắc lại: Anh viết tự khai.
- Tôi hiểu.
- Tốt. Trong các anh, nhiều người
chướng lắm. Lố lăng nhất là thằng Trần Dạ Từ. Bảo viết tự khai, nó làm thơ
chéo.
Tôi chưa biết thơ chéo ra sao.
- Nó đòi làm việc với nhà văn miền
Bắc! Công an bắt nó mà nó mơ mộng. Cuối cùng, nó vẫn làm tự khai.
Chấp pháp số 7 dằn mặt tôi. Hắn lôi người
không ở chung phòng tôi ra dẫn chứng. Đây là đòn công an. Như gã chấp pháp xứ
Nghệ đã “bỏ nhỏ” Nguyễn Mạnh Côn khai về tôi “không lấy gì làm đẹp”. Cộng sản
dùng kế ly gián để chúng tôi bôi lẫn nhau cả những chuyện không liên can tới
văn nghệ phản động. Tôi biết chắc họ đã đem tôi ra “bỏ nhỏ” với người này,
người kia. Công an chế độ nào cũng giống nhau. Công an và an ninh quân đội. Đòn
ly gián rất ếp-phê. “Nhà văn hoá” Trần Tam Tiệp đã áp dụng thủ thuật khốn kiếp
này. Muốn bêu tôi, ông ta gửi về tặng Dương Hùng Cường gói thuốc tây, kèm theo
cái thư có đoạn “bỏ nhỏ”: Này, thằng Duyên Anh đang ở Paris, nó uống rượu tối
ngày, nó chửi mày dữ quá! Dương Hùng Cường sẽ nổi điên, nghĩ rằng thật, nó sang
Pháp sung sướng còn nỡ chửi anh em. Bèn hài tội Duyên Anh, thêu dệt đủ tội. Khi
người ta phẫn nộ thì ghê lắm, “Nhà văn hoá” Trần Tam Tiệp, gốc an ninh quân
đội, chớp được thư nhà, phô-tô cóp-pi vung vít mà gửi khắp quần hào. Cái tác
phong ngụy tiểu nhân của cớm sớm muộn nó cũng lòi ra. Bọn bất tài vô tướng thường
chơi thủ thuật. Chừng thủ thuật hết thiêng, chúng nó lêu bêu như lũ chó ghẻ già
nua.
Chấp pháp số 7 nói tiếp:
- Cái thằng Như Phong Lê Văn Tiến
vẫn ngoan cố. Bầy đặt tuyệt thực. Thời đại của Thiệu đã cáo chung. Đứa nào muốn
chết cháv, cứ tự nhiên. Gia đình nó sẽ đóng thuế ngu cho nó. Rốt cuộc, Như
Phong đành tự khai. Các anh không kiên trì bằng người cộng sản. Các anh là đá,
chúng tôi là nước. Nước chảy đá mòn. Các anh là sắt, chúng tôi là át-xít.
Át-xít gặm mòn sắt. Chúng tôi có giai đoạn rõ rệt. Kiên trì rồi kiên quyết.
Khoan hồng rồi trấn áp. Các anh thích làm anh hùng, chúng tôi biến thành anh
hèn ngay. Khẩn trương, đột xuất.
Hắn đánh phủ đầu tới tấp. Nhờ hắn
tiết lộ, tôi tin chuyện Như Phong đã khước từ cơm tù 41 ngày mà anh em C-2 kể
cho tôi nghe khi anh em chuyển sang C-l, chung phòng tôi, mấy tháng sau. Như
Phong “yoga” ở cachot. Anh không viết tự khai, không làm tự điển Việt Nam Quốc
Dân Đảng. Nhà quân sự Phải Gió uống nước chanh đường mà yoga. Mức yoga của Như
Phong đến bậc thượng thừa. Đề lao biết anh... tuyệt thực, cứ giả vờ như không
biết. Ô cửa gió mở. Quản giáo thường xuyên theo rõi. Bấy giờ, Trưởng trại T-20
tức Giám thị đề lao Gia Định là thiếu tá công an Tuấn, Phó trại là Tư Long, tên
nằm vùng bán vé xe đò bến Saigon – Đà Lạt cho hãng xe Minh Trung. Tư Long đeo
quân hàm đại úy. Ngày thứ 41, Tư Long cúp ống dẫn nước vào cachot. Quân sư Như
Phong kềnh ngay lập tức. Người ta khuân anh ra Phòng Y Tế. Người ta chích nước
biển. Như Phong còn đủ sức co tay, Tư Long xỉ vả anh. Như Phong thều thào: “Anh
nên lễ độ, tôi chấp nhận cái chết”. Bác sĩ Quang năn nỉ Như Phong: “Xin anh cho
tôi làm bổn phận y sĩ”. Người ta đè anh, trói chân anh, tay anh trên giường. Và
vào nước biển tiếp sức. Như Phong được đề lao bồi dưỡng một thùng sữa đặc, trở
thành tù nhân de luxe của đề lao. Anh ra phòng tập thể C-2, ngày ngày đi mạn
đàm với chấp pháp. Rồi anh viết tự khai...
Chấp pháp số 7 đã đưa giấy bút cho
tôi.
- Anh viết khẩn trương vì tôi sẽ về
Hà Nội công tác đột xuất. Tự khai lần này khác.
Tôi hỏi:
- Tôi sẽ viết thế nào?
Hắn đáp:
- Cuộc đời anh từ năm anh 10 tuổi
đến ngày anh bị bắt. Thật chi tiết. Chính xác ngày, tháng, năm.
- Làm sao tôi nhớ ngày tháng?
- Cố nhớ đến đâu hay đến đó. Anh hay
khoe anh có trí nhớ tốt mà.
- Chỉ vậy?
- Anh tóm tắt mỗi cuốn sách của anh,
khai rõ cảm hứng nào anh viết, anh viết nhằm mục đích gì, ai thuê anh viết, mỗi
cuốn giá bao nhiêu... Anh đừng quên những bài báo của anh trên những tờ báo anh
cộng tác.
- Tôi viết cả 10 ngàn bài dài ngắn.
- Cố nhớ.
Bạn thấy hệ lụy văn chương của những
nhà văn ở lại bị bắt chưa? Tôi muốn ông “nhà xuất bản” Đại Nam và các ông “nhà
báo” viết thuê cho ông Đại Nam chửi bới tôi đọc Nhà Tù. Hy vọng lương tri các
ông ấy thức tỉnh. Tôi cũng muốn độc giả thân mến của tôi tỏ thái độ quyết liệt
với những kẻ sống trên lưng nhà văn, sống trên nỗi thống khổ mà nhà văn phải
chịu đựng vì hệ lụy văn chương của mình. Cái công trình mồ hôi, nước mắt, tim
óc của chúng tôi đã bị chà đạp ở quê nhà, còn bị ăn cướp ở quê người. Và những
kẻ cướp đó lại là người Việt Nam, nạn nhân của cộng sản như chúng tôi, nhưng
may mắn hơn chúng tôi. Tôi sắp chịu cực hình, đau đớn trên mọi tra tấn. Là tóm
tắt 50 cuốn sách của tôi. Và phát biểu cảm tưởng về chữ nghĩa dĩ vãng. Và bôi
nhục nó. Và nguyền rủa nó. Ôi, văn chương, nó đã đưa tôi lên và nó đã dìm tôi
xuống. Không, cộng sản đã dìm tôi và văn chương của tôi. Hai chúng tôi đang
“chết đuối trên cạn”, đang sặc sụa, đang đạp dẫy.
- Tôi nói để anh chuẩn bị tư tưởng:
Anh phải tranh thủ thời gian.
Gã quản giáo đã đem ca cà-phê đá
tới. Tôi bắt đầu viết tự khai, bắt đầu chơi lại một trò chơi quái đản của ý
thức hệ. Trò chơi khốn kiếp này, tôi đã chơi và đã thể hiện ở một tiểu thuyết
mới nhất của tôi. 1 Xin trích một đoạn:
- “Tôi đã viết ba lần.
- Ba lần anh viết khác nhau. Tôi chỉ
yêu cầu hai lần giống nhau là đủ. Anh viết ba lần ba cuộc đời của ba con người!
- Cô cho phép tôi đọc cả ba bản để
cô so sánh.
- James, anh đã biết điều, nên tiếp
tục biết điều. Tù nhân không được quyền yêu sách. Anh được đọc nội quy nhà tù
chưa?
- Chưa.
- “Triệt để thi hành mệnh lệnh của
cán bộ”. Anh viết lại tự khai.
- Bắt đầu?
- Phải, từ năm anh mười tuổi đến khi
anh bị bắt.
James viết tự khai lần thứ tư. James
viết tự khai lần thứ năm. Lần thứ sáu. Lần thứ bảy. Lần thứ tám. Lần thứ chín.
Lần thứ mười, về cuộc đời chàng từ năm chàng mười tuổi đến khi chàng bị bắt.
Đến lần thứ ba mươi, ấu thơ chàng, niên thiếu chàng, thanh xuân chàng, kỷ niệm
chàng, tình yêu chàng, mơ ước chàng, hạnh phúc chàng, gia đình chàng, trường
lớp chàng, thầy cô chàng, bạn bè chàng, nơi chôn rau cắt rốn chàng, dòng sông
chàng, cánh đồng chàng, khu rừng chàng, ngọn núi chàng, sân cỏ chàng... ngậm
ngùi lếch thếch dắt díu nhau lên trên những trang tự khai quái đản. Dĩ vãng đi.
Dĩ vãng về. Dĩ vãng bò. Dĩ vãng lết. Dĩ vãng nhẩy. Dĩ văng chạy. Dĩ vãng vấp. Dĩ
vãng ngã. Dĩ vãng tới. Dĩ vãng lui. Dĩ vãng nằm nghiêng. Dĩ vãng nằm ngửa. Tuổi
hồng của James bị bầm vặp. Tháng ngày đẹp nhất đời người của James bị đâm chém.
James sợ hãi, James kinh hoàng viết về dĩ vãng, về ấu thơ, về gia đình, về
trường lớp, về tình yêu. Người lính Mỹ tên là James Fisher tâm hồn thánh thiện,
biểu tượng sáng chói của cái thật, cái tốt, cái đẹp của dân tộc Mỹ, tham dự
chiến tranh ở Việt Nam không hề mang theo ý thức hệ, không hề nhân danh chủ
nghĩa tư bản, chỉ đáp theo tiếng gọi của tổ quốc yếu dấu, đang bị quay chóng
mặt trong trò chơi của ý thức hệ. Và trò chơi mang tên tự khai, một kiểu tra
tấn tinh thần tinh vi nhất, độc ác nhất trong thời đại mà bóng tối đã phủ kín
lương trí loài người.
James Fisher bơ phờ, hốc hác. Chúa
Jesus không bị viết tự khai như James Fisher nên ngài mới bình thản nói: “Đừng
lo lắng chi về ngày mai, vì ngày mai sẽ tự lo lắng cho ngày mai”, James đã thấm
đòn tự khai. Chàng lo lắng ngày mai vô cùng. Chàng sợ hãi ngày mai. Ngày mai
quằn quại hơn hôm nay. Ngày mai, chàng nhìn rõ móng vuốt nó nhọn hoắt cào cấu
đầu óc chàng; chàng nhìn rõ răng nó sắc bén gậm nhắm thần kinh chàng. Trên
những trang giấy hãi hùng. Một cây bút, một xấp giấy. Nhỏ bé và êm ái. Thế mà
bút và giấy đã khiến chàng bấn loạn điên khùng. James chỉ muốn chết để khỏi
viết tự khai. Bây giờ chàng mới hiểu nhà tù cộng sản và sự khoan hồng, nhân đạo
cộng sản. Tám năm chịu đựng thống khổ dưới hầm đá, trong các cachots, James đã
chịu đựng nổi và sẽ chịu đựng hoài cho tới ngày nhận “phần thưởng trên trời”. Nhưng
tự khai, chàng không hứa hẹn lần “no đủ sự công nghĩa”, dẫu tự khai cuộc đời
chàng từ năm chàng mười tuổi đến khi chàng bị bắt.
Nàng Chi Mai chẳng thèm xúc động.
Chàng viết tự khai lần thứ năm mươi thì ba mươi trang giấy thừa quá nhiều. “Tôi
rất tiếc James ạ”! James không thể viết tự khai nữa. Thần kinh của chàng căng
thẳng. Chi Mai không tha chàng, không mảy may trắc ẩn. Nàng bày thêm chi tiết
của trò chơi. James sắp ăn, nàng gọi lên viết tự khai. James đang ngủ, nàng gọi
lên viết tự khai. James mệt mỏi, nàng gọi lên viết tự khai. James ốm đau, nàng
gọi lên viết tự khai. Rồi James hết thèm ăn, chán ngủ, James gầy gò, xanh xao.
Mắt James thâm quầng. Râu ria James tua tủa. James chẳng còn biết chàng đã viết
gì. James mất tự chủ. James hôn mê khi viết tự khai. James viết bậy bạ. James
viết thư cho cha mẹ. James viết những lời thương nhớ Susan McCareen. James viết
lời quốc ca. James vẽ bản đồ nước Mỹ. James làm thơ. James gọi Thượng Đế. James
cầu cứu Chúa Jésus. Vào đúng lúc James tê liệt dễ sai khiến nhất, bảo sao làm
vậy miễn là đừng bắt viết tự khai cuộc đời mình từ năm mười tuổi đến ngày bị
bắt thì Chi Mai gọi chàng lên văn phòng của nàng.
- James, anh viết bao nhiêu lần rồi,
nhớ không?
- Bẩy mươi.
- Sai.
- Sáu mươi.
- Sai. Cố nhớ đi!
- Tôi không nhớ.
- Một trăm mười hai lần!
Chi Mai nhoẻn miệng cười:
- Chưa phải là kỷ lục tự khai.
James hồi hộp chờ đợi một câu nói mà
chàng sợ hãi nghe. Nàng cố tình nín thinh. Nàng khoái kéo dài sự lo lắng của
James Fisher. Con sói cái muốn vờn con cừu non mềm nhũn, ngã qụy rồi mới rút
ruột.
- James!
- Tôi nghe.
- Tôi rất tiếc James ạ!
James Fisher choáng váng.
- Tôi rất tiếc những lần sau cùng
anh viết lung tung. Anh mệt mỏi, anh rã rượi rồi, hả?
Chàng thành thật:
- Phải, tôi rã rượi rồi."
......
Thật sự, nhân vật tiểu thuyết của
tôi chưa rã rượi bằng tôi. Tôi đã nói tôi sợ tôi không đủ khả năng diễn tả một
buổi trưa hè trong một phòng giam của đề lao Gia Định. Thì làm sao tôi viết hết
nổi cảm giác nhục nhằn của tự khai. Nhân vật tiếu thuyết của tôi chi phải tự
khai từ năm 10 tuổi đến ngày bị bắt. Còn tôi, tôi phải truy nã hồi tưởng mà tự
khai 50 cuốn sách và 10 ngàn bài báo của 15 năm viết lách mưu sinh. Năm 1937,
Nguyễn Vĩ than vãn:
Thời thế bây giờ vẫn thấy khó
Nhà văn An nam khổ như chó
Mỗi lần cầm bủt viết văn chương
Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương
Rồi nhìn chúng mình hì hục viết
Suốt mấy năm trời kiết vẫn kiết.
Nỗi khổ “kiết vẫn kiết” thấm gì với
nỗi khổ tự khai của nhà văn Việt Nam năm 1976. Không có hình phạt nào thảm thê
bằng hình phạt tự khai. Mọi thống khổ ngục tù trại tập trung là cỏ hèn dưới
chân đại thụ tự khai sừng sững. Tự khai của các nhà văn, cuộc truy nã thân phận
mình, sự nghiệp mình và kết tội mình. Tự khai của các nhà văn, niềm đau đớn
tổng hợp niềm đau đớn của chữ nghĩa cổ kim, Đông Tây. Đó là một tra tấn tổng
hợp những tra tấn của loài người ác độc. Tôi đã cố gắng ghi chép:
Người ta đưa cho anh một sấp giấy
trắng
đã kiểm soát số trang
anh có thể gạch xóa nhiều hàng
nhưng cấm anh xé bỏ
tư tưởng anh bị soi kính hiển vi
từng cái chấm nhỏ
Viết gì
Tự khai
Tự khai gì
Cuộc đời anh từ lên mười đến ngày
anh vào rọ
Người ta đưa thêm cho anh một sấp
giấy trắng
đã kiểm soát số trang
Viết gì
Tự khai
Tôi viết rồi
Viết nữa
Khai gì
Cuộc đời anh từ lên mười đến ngày
anh vào rọ
Người ta lại đưa cho anh một sấp
giấy trắng
đã kiểm soát số trang
Viết gì
Tự khai
Tôi đã viết hai lần
Viết thêm nữa
Khai gì
Cuộc đời anh từ lên mười đến ngày
anh vào rọ
Anh phải viết ngày này qua tháng nọ
viết đến khi anh phờ phạc dại khờ
dĩ vãng hiện tại anh đảo lộn mập mờ
Viết đến khi anh đớn đau chết ngất
Đó là lúc người ta tìm ra sự thật
để kết án anh dù anh chẳng có tội
chi
Này bạn
Bạn sẽ chép lại được mấy lần bức thư
tình đã viết
Riêng tôi rất oanh liệt
Viết bốn trăm lần một bản tự khai 2
Những nhà văn bị nhốt ở Sở Công An,
ở đề lao Gia Định đều bị tra tấn theo cung cách này. Tất cả đều chóng mặt. Tất
cả đều rã rượi. Tất cả đều bị chữ nghĩa tự khai xoáy mòn xương thịt. Ở những
giây phút hôn mê ấy, chỉ có tù nhân và chấp pháp. Đôi khi, chỉ có một tù nhân
trong căn phòng nhỏ. Nhà văn cô đơn sáng tạo. Nhà văn cô đơn tự khai. Chắc
chắn, không có lão Toan Ánh đứng ngoài nhìn trộm và nghe lén qua khe cửa để bịa
đặt tin bẩn, thứ tin chó dại ngoạm vào nỗi thống khổ của người oan khổ dưới bút
hiệu Lã Vi. Và, chắc chắn, chỉ một gã chủ báo chưa vỡ nghĩa “người đi đường và
con chó” của Quốc văn giáo khoa thư lớp sơ đẳng mới tự phóng uế lên lương tâm
mình mà toa rập với “người đi đường” khốn kiếp và ác độc. Không ai biết được
nỗi đau đớn, không ai biết được lòng quả cảm và sự hèn mọn ở không gian tự khai
cả. Người cộng sản tim thép không xúc động. Họ lại có thú vui nhìn con người
quằn quại. Người nhà văn viết tự khai “phờ phạc dại khờ”, “dĩ vãng hiện tại đảo
lộn”, chẳng còn hiểu nổi cả sự hiện hữu của bản thân mình. Nhưng tôi, tôi dám
thách thức cộng sản Việt Nam xuất bản Tự Khai dầy ngót 2000 trang viết tay
giòng thưa của tôi. Tôi thách thức cộng sản Việt Nam công bố một sự thật về tôi
có dấu tích thủ bút của tôi ở đề lao Gia Định, nơi tôi đã viết tự khai ròng rã
40 ngày đêm, nếu họ can đảm bằng không, họ nên chấm dứt cái điệp vụ văn hoá rẻ
tiền nhằm hạ uy tín chống cộng của tôi, nhằm làm tê liệt sự phản kháng của tôi,
nhằm cô lập tôi với đồng bào của tôi. Trò chơi này đã quê kệch và mất ép-phê.
Ép-phê ngược là đằng khác. Sau ba năm trở lại nghề viết và hiên ngang sống bằng
chữ nghĩa, tính từ tháng 4-1984 đến tháng 4-1987 tôi được phép ngạo mạn ngồi
lên mặt cộng sản và những kẻ a dua cộng sản bêu nhục tôi. Tôi đã không chết.
Tôi đã không cúi mặt. Tôi vẫn ngẩng mặt. Tôi mãi mãi phong phú sinh lực sáng
tạo. Để chiến đấu và để góp phần tạo hạnh phúc cho cả cộng sản lam lũ, bần hàn.
Như nhân vật James Fisher, trong
tiểu thuyết mới nhất mang nhan đề tiếng Việt Một định nghĩa tình yêu của tôi mà
nhà xuất bản Belford muốn đặt là Un prisonnier américain au Vietnam, tôi đã
viết tự khai vào những giờ giấc toan tính của chấp pháp số 7. Hắn chỉ thị quản
giáo rình mò tôi. Buổi sáng, nước sôi vào phòng, tôi pha mì vụn điểm tâm, chưa
kịp ăn, hắn đã gọi tôi ra viết tự khai. Tôi ngồi viết một chập, hắn cho về ăn
lót dạ. Mì chương đầy ca, tôi không muốn ăn. Hắn lại gọi ra. Qua bữa ăn trưa,
hắn cho về. Tôi nhấm nhá cầm hơi. Nằm nghỉ chưa kịp nhắm mắt, hắn gọi ra. Tối
hắn gọi ra. Đêm hắn gọi ra. Tranh thủ thời gian.Viết ngày không đủ, tranh thủ
viết đêm. Tôi mất ăn, mất ngủ. Tôi ngẩn ngơ quên cả ghẻ nước, ghẻ mủ. Phép lạ
hay niềm tin đã giúp tôi đủ sức cầm cự đòn tra tấn thần kinh tự khai? Tôi chẳng
biết anh em có bị tra tấn như tôi. Nhà văn, nhà báo đã bị cách ly. Nhà văn còn
bị cách ly với cả các tù nhân cùng phòng, thời gian viết tự khai. Tại tôi mệt
lử cò bọ, về phòng là nằm bất động, các bạn trẻ không thích quấy rầy tôi hay họ
bị ra lệnh cấm liên hệ với tôi? Đêm thứ 40, tôi nhớ rõ, tôi đánh số trang 1780,
sang phần tự khai những tờ báo tôi viết thuê, tôi làm chủ bút, chủ nhiệm và những
bài báo tôi đã ký một lô bút hiệu Thương Sinh, Thập Nguyên, Mõ Báo, Vạn Tóc
Mai, Lệnh Hồ Xung, Thái Anh, Nã Cẩu, Bếp Nhỏ, Bếp Phụ... Hạnh phúc cho tôi là
tôi được ngưng ở trang 1780.
- Anh tạm nghi. Sáng mai tôi về Hà
Nội.
Chấp pháp số 7 nói:
- Chúng ta sẽ tiếp tục làm việc. Có
một dấu hiệu chứng tỏ anh thiếu thành khẩn.
Hắn giải thich ngay:
- Năm trang tự khai của anh mới bằng
một trang bản thảo tiểu thuyết của anh. Anh viết ngoài thói quen viết sít hàng,
chữ nhỏ li ti của anh. Ngoài thói quen là ngoài ý muốn. Tư tưởng thể hiện hành
động. Anh thiếu thiện chí cải tạo.
Thiện chí cải tạo! Bạn hiểu chưa? Ở
xã hội cộng sản, xã hội ưu việt của loài người, con người còn cần biểu lộ thiện
chí vào tù, thiện chí chịu đựng đau khổ, thiện chí lãnh đòn tra tấn tinh thần.
Chấp pháp số 7 lôi từ xặc-cột của
hắn ra một trang bản thảo tiểu thuyết Người con gái ngồi đợi mộí chuyến tàu về
3 mà đám côn quang đã lục xét, tịch thu tại nhà tôi đêm 8-4-1976. Bản thảo của
tôi sạch, đẹp, ít bôi chữa, viết chữ thật nhỏ, dòng thật khít. Đó là thói quen.
Tôi lại thích viết bằng giấy in nhật báo. Vì nó mềm và thấm mực bút nguyên tử.
Ở tòa soạn, tôi thường viết những bài báo đằng sau bản tin Việt Tấn Xã in một
mặt. Tôi không hiểu tại sao chấp pháp số 7 chọn trang thứ nhất của bản thảo Người
con gái ngồi đợi một chuyến tầu về là trang tôi viết nhỏ nhất, sít dòng nhất mà
so sánh. Hắn đã cho tôi viết tự khai trên pelure mỏng, thứ giấy pelure sản xuất
tại Việt Trì mầu như mầu giấy dầu.
- Với cách mạng, anh không thể dấu
diếm nổi tư tưởng thầm kín của anh đâu, cách hành văn tự khai của anh như người
mới tập viết. Anh bẻ dừa bẻ ngô, râu ria thừa thãi.
Phê bình văn chương tự khai của tôi
một lúc, hắn đưa tôi về phòng I C-1. Tôi có những ngày ăn ngủ điều hòa. Cộng
sản đã tính sức chịu đựng của tôi. Thêm nữa, tôi sẽ chết gục trên tự khai. Họ
chỉ cần hành hạ tôi chứ cần gì tôi tóm tắt toàn bộ tác phẩm của tôi. Họ đã đọc
hết, đọc từ lâu. Tôi chờ đợi chấp pháp số 7 trở lại Sàigòn.
--------------------------------
1 Un prisonnier Americain au
Vietnam, cuốn thứ ba của Duyên Anh viết cho nhà Belfond. Giao kèo của Belfond
yêu cầu Duyên Anh viết cho họ 5 cuốn.
2 La Torture (Tra Tấn) trong tập
Poèmes de prison do Les Éditions de Caux, Thụy Sĩ xuất bản.
3 Tiểu thuyết này đăng được 10
chương trên tạp chí Tuổi Ngọc thì dang dở vì cộng sản thôn thính miền Nam.
(còn tiếp)
Duyên Anh