CHƯƠNG
12
Bạn biết người y tá tù là ai không?
Đoàn văn Toại, tác giả Goulag Vietnamien láo lếu đấy. Cái xó xỉnh đề lao Gia
Định này là biểu tượng của nền ngục tù ô nhục của công sản ư? Đoàn Văn Toại chỉ
quanh quẩn ở đề lao Gia Định. Anh ta bị bắt trước tôi vài tháng. Khi tôi đến đề
lao, Đoàn Văn toại được ban phát ân huệ giúp việc Phòng Y Tế. Trưởng phòng Y
Tế, bác sĩ Quang, y sĩ trung úy Thủy Quân Lục Chiến … nằm vùng. Sau 30-4-1975,
anh ta mang quân hàm trung úy công an. Có lẽ, Quang là bí danh của anh ta. Đoàn
văn Toại nghiền, tán thuốc dân tộc và phát thuộc các phòng tập thể C-1. Anh ta
chưa được bén mảng ở cửa cachot.
Toại hưởng quy chế ăn uống, tắm giặt thoải mái
trên Phòng Y Tế. Mỗi tuần, Toại ra cổng trại, nhận thuốc của thân nhân tù nhân
đăng ký. Bề ngoài nhận xét, Đoàn Văn Toại có vẻ là một cán bộ bị kỷ luật hơn
một tù nhân chính trị. Lý do nào anh ta được cộng sản tin cẩn, tôi không hiểu.
Toại biết thân, biết phận, không bàng nhàng với anh em. Một cách vô tư mà nhận
xét, dưới mắt tôi, Đoàn văn Toai chỉ khúm núm cầu an. Anh ta chưa hề hại ai. Mà
cũng chẳng ai có thể hại ai ở trong tù. Những kẻ xử dụng ngôn từ đao to búa lớn
“Bước lên xác anh em, bán xác anh em” là những kẻ gian dối. Nó đã chứng tỏ kiến
thức nhà tù cộng sản quá thấp. Cộng sản không bao giờ tin cả những tên họ xử
dụng làm tai mắt cho họ. Hễ tên “ăng-ten” báo cáo một tù nhân nào, ít nhất, hai
tù nhân khác bị gọi ra làm việc trước. Và câu hỏi như vậy: “Anh thấy anh X có
khả năng làm việc đó, nói điều đó không?” Nếu hai tù nhân “chứng nhân” trả lời
“không”, tù nhân bị báo cáo bình yên, và tên “ăng-ten” viết tự kiểm. Tôi đã
trải qua ba nhà tù lớn nhất và hãi hùng nhất của miền Nam, tôi chưa thấy một tù
nhân nào bị chết vì bị “ăng-ten” báo cáo. Tôi cũng chưa thấy một tù nhân nào
được thả sớm nhờ làm “ăng -ten”. Chuyện “ăng-ten” là chuyện nhỏ nhặt đấy. Bạn
còn nhớ Vũ Thành An, tác giả Những bài ca không tên chứ? Tất cả viên chức cao
cấp “ngụy quyền” ở Lòng Thành đều rõ. Vũ Thành An đã sáng tác ca khúc có đoạn:
… Nay mới rõ, đế quốc Mỹ là quân xâm
lược
Nay mới rõ, lũ ngụy quyền là lũ tay
sai
Bao nhiêu năm mình cúc cung phục vụ
miệt mài …
Nhờ ca khúc … nín thở qua câu này,
Vũ Thành An ho lao đỡ phải vác cuốc, ngồi nhà làm Thông Tin Văn Hóa tù. Rốt
cuộc, anh ta vẫn bị đày ra Bắc và trở về bệnh hoạn tiều tụy. Người ta có nỡ kết
án Vũ Thành An làm “ăng-ten”, Vũ Thành An “bán xác anh em” không? Vẫn ở trại
cải tạo Long Thành, bác sĩ N. Ng. T. (hiện đang định cư ở Mỹ) phục vụ tại bệnh
xá tù, đã tình nguyện vác cả tủ lạnh, ti vi đem vào dâng Trưởng trại Ba Tô để
hưởng nhàn, để tích trữ thuốc và để Chánh án Đào Minh Lượng mất nửa lá phổi, để
Vũ Thành An ói máu thì sao không ai nói? Chưa đủ đê tiện, bác sĩ T. còn dụ đưa
Ba Tô về Sàigòn chơi, cho Ba Tô ăn uống no say, để được ngủ với vợ. Và bầy trò
khám các nữ tù trại Long Thành để bọn cai tù … coi xi nê thỏa thích 1. Sao
không nghe ai nói nhỉ? Tôi sẽ bênh vực đến cùng, nếu ai bảo Đoàn Văn Toại làm
“ăng-ten”. Toại, ban ngày, ở ngoài phè phỡn, ban đêm, vào phòng 7C-1. Phòng
7C-1 có phóng viên lùn Văn Chi, dũng sĩ quốc gia đã đánh hai Pháp kiều thân
Cộng treo cờ Giải Phóng ở trung tâm Sàigòn trước 1975. Sau năm 1975, Văn Chi
bán phở và tham gia tổ chức phản động. Anh ta đã “chào mừng” tôi bằng trái xoài
nhờ Đoàn Văn Toại chuyển. Phòng 7C-1 có tỷ phú Phạm Quang Khai, vua tàu dầu, tư
sản mại bản. Ông Khai có 50 chiếc tàu chuyên chở dầu chiến lược. Ông không tin
thủy thủ đoàn Việt Nam, chuẩn bị một chiếc tàu với thủy thủ đoàn Đại Hàn. Chổi
cùn, dế rách ở biệt thự nguy nga số lẻ đường Công Lý, đối diện trường Régina
Mundi, được khuân hết xuống tàu. Vợ con ông đã đi từ khuya. Ngày 29-4-1975, ông
khệnh khạng xuống tàu. Thủy thủ đoàn Đại Hàn ớn cộng sản đã chuồn rồi. Ông tỷ
phú đứng khóc. Ông muốn điên. Ông lú lẫn. Ông không kiếm người khác. Ông sợ tàu…
chìm. Và ông … vào tù y hệt tinh thần luân lý giáo khoa thư: “Ba quan đắt quá,
thà chết còn hơn”. Phòng 7C-1 có cụ Cao Văn Diên, phản động già và cụ Trần Văn
Liễu, phản động gân. Nhân vật Cao Văn Diên hiện diện trong Goulag Vietnamien
của Đoàn Văn Toại như một ông già bị bắt oan và chết tại đề lao Gia Định. Sẽ đề
cập sau.
Nhờ thảnh thơi ban ngày ngoài phòng
giam, Đoàn văn Toại đã thoát dịch ghẻ 1976 kéo dài từ tháng 4-1976 đến tháng
10-1976. Cuối năm 1976, Toại bị tống vào phòng vì sự liên hệ lèm nhèm nào đó.
Chức vụ y tá C-1 rơi vào tay Lý Sen, chủ nhà băng Đông Nam Á, tư sản mại bản
Chợ Lớn. Đoàn Văn Toai bắt đầu bất mãn. Vợ anh ta, quốc tịch Pháp, con gái nhạc
sĩ Võ Đức Tuyết, đã ẵm con sang Tây. Toại ở chung phòng với Đặng Giao bên khu
A. “Ngày nào thành công, tôi sẽ sản xuất một loạt cầu tiêu hình đầu Hồ Chí
Minh. Cái miệng lão là chỗ phân rơi xuống!” Đoàn Văn Toại tâm sự với Đặng Giao
và Đặng Giao kể lại ngày chúng tôi tái ngộ ở Chí Hòa. Rồi Toại được thả, được
leo lên máy bay Air France, đoàn tụ gia đình. Tôi vượt biển sang Pháp, biết
Đoàn Văn Toại đã kể chuyện đề lao cho Minh Đức Hoài Trinh và Minh Đức Hoài
Trinh thông dịch cho một ký giả Tây. Và Goulag Vietnamien xuất bản. Tôi lại
biết Toại đã vận động định cư ở Mỹ và theo Trương Như Tảng. Tảng theo Hoàng Văn
Hoan, chỉ chống tập đoàn Lê Duẩn – Trường Chinh, chứ không chống cộng sản Việt
Nam. Họ đã xác định lập trường. Hồ Chí Minh vẫn là xác chết được tôn thờ. Cậu
Đoàn Văn Toại từng bầy tỏ chí khí “Sản xuất một loạt cầu tiêu hình đầu Hồ Chí
Minh. Cái miệng lão là chỗ phân rơi xuống”. Bây giờ, cậu Đoàn Văn Toại “phản
tỉnh”, “thức tỉnh”, cậu hò hét “Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp
chúng ta”. Giữa Toại và tôi đã có biên giới.
Mùa thu 1985, Đoàn Văn Toại, qua
Paris, với tư cách cựu tù nhân đề lao Gia Định, mời tôi ăn tối. Với tư cách cựu
tù nhân đề lao Gia Định, tôi nhận lời. Chúng tôi hẹn nhau ở quán Đào Viên quận
13. Đoàn Văn Toại tặng tôi cuốn Goulag Vietnamien. Tôi nói:
- Tôi đã đọc. Sách của cậu đáng
liệng vào thùng rác. Vì có những ba điều bố láo. Một: Ở đề lao Gia Định, giấy
và bút bị nghiêm cấm. Công an kiểm tra hành lý tù thường xuyên, cậu đào đâu ra
giấy bút mà lập kiến nghị? Rồi tù nhân bị nhốt kỹ 24 trên 24, cậu liên lạc với
ai mà xin được hàng trăm chữ ký? Hai: Cụ Cao Văn Diên phản động nặng, cụ bị đầy
lên Pleiku và chết tại Gia Trung, cậu bảo cụ ấy chết ở đề lao. Cậu được tha, cụ
Diên vẫn còn nằm ở đề lao. Cụ Diên rời đề lao sau 2-9-1977. Ba: Cậu quả quyết
tôi chết rồi. Còn rất nhiều bố láo. Ba điều thôi đã đủ liệng sách “Chứng nhân”
của cậu vào thùng rác. Tôi sẽ chửi nhà xuất bản Laffort cái tội rủa tôi chết.
Đoàn văn Toại cười cầu tài:
- Tôi kể đại ông ơi!
Tôi nhìn thẳng mặt anh ta:
- Điều nầy ngoài cuốn sách. Cậu là
thằng bất nhân. Đã cho tôi chết, cậu còn bảo tôi làm “ăng-ten”
Toại chối:
- Tôi thề với ông, tôi không hề bêu
nhục ông. Đứa nào nói với ông vậy?
Tôi chậm rãi:
- Bạn cậu, Vũ Ngọc Yên, tạp chí Độc
Lập bên Đức.
Đoàn Văn Toai câm họng. Tôi cười xòa
và bốc anh ta chín từng mây. Toại khoái chí chửi Trương Như Tảng cù lần, Hoàng
Văn Hoan đần độn, Nguyễn Công Hoan ngu dốt, Tô Văn cố đấm ăn xôi… Anh ta nói về
đài phát thanh sẽ lập ở Tân Gia Ba, gợi ý mời tôi bằng cách than thở thiếu nhân
tài. Nội tình của phe nhóm anh ta, anh ta kể vanh vách. Tôi nghĩ thầm: Mẹ kiếp,
mày nhóc tì, tuổi ít hơn ông, ngu hơn bò mà cứ đòi đi mưu cầu hạnh phúc cho dân
tộc ông à? Ông vừa trổ đòn nhà báo, mày đã tự khai vung xích chó. Hết chai rượu
đỏ, tôi nói:
- Thôi nhé, chut tình đồng tù đề lao
đến đây chấm dứt. Cậu đi đường cậu, tôi đi đường tôi. Mai này tôi đánh, cậu rán
mà đỡ. Tôi thích sòng phẳng.
Chúng tôi chia tay. Ít tháng sau,
Toại gửi cho tôi một bức thứ từ Liễu Châu. Anh ta ba hoa: “Đã thăm mộ các liệt
sĩ quốc gia, sẽ không còn sai lầm như họ”. Tôi suýt chửi thề. Đó, người y tá tù
đề lao Gia Định khu C-1, nhà cách mạng lưu vong Đoàn Văn Toại, với đầy đủ tài
năng và tư cách, người đang chu du thế giới bằng tiền Tàu, tranh đấu cho giấc
mộng Tôn Sĩ Nghị cùng đám Hoàng Văn Hoan, Trương Như Tảng. Và tôi, tôi ngồi
trên lầu 8 của cái immeuble bên bờ sông Seine, thành phố có thị trưởng Jacques
Laloe, là đảng viện cộng sản, có tổng hành định của Georges Marchais, Tổng bí
thư Đảng cộng sản Tây, viết sách mưu sinh. Bởi nghèo, nên bị cư trú tại Ivry
Sur Seine. Bởi chống cộng, nên bị Jacques Laloe lờ tít mọi trợ cấp xã hội, y
tế. Không sao, tôi đã chống cộng, tôi đang chống cộng, tôi còn chống cộng đến
tối. Tôi anh dũng thấy mẹ, tôi chống cộng trong lòng địch!
Trở lại đề lao Gia Định, nơi tôi
đang học môn Thống Khổ Nhập Môn. Tôi ở 6C-1 đã 2 tuần, đã quen với sinh hoạt
phóng này. Tôi không còn gớm ghiếc nhìn đống mài ghẻ mà trực sinh quét gom buổi
sáng. Bạn thử tưởng tượng mài ghẻ mủ và mủ ghẻ dính nhớp nhúa trên bục nằm, mỗi
sáng. Người ta phát cho chúng tôi miếng bố tời, vừa để chùi chân bước lên cầu
tiêu vừa để lau bục nằm. Ở đề lao, dép cất kỹ trong bị, chỉ mang khi bị gọi lên
phòng chấp pháp làm việc. Làm việc, danh từ cộng sản, có nghĩa là làm việc với
công an, có nghĩa là viết tự khai và chịu đựng những cuộc thẩm vấn điên đầu.
Người cộng sản chơi chữ rất xảo quyệt. Một ông Ba Tàu đã phát biểu ý kiến ở
phòng B, Sở Công An: “Lù má ló, pắt pỏ tù lại pảo li học tập. Lấy cung lại pảo
làm việc. Nhà tù lại pảo trường học. Cai ngục lại pảo quản giáo, cán pộ!” Chữ
nghĩa của cộng sản đã huyễn hoặc thế giới. Cho đến hôm nay, báo chí người và cả
báo chí mình vẫn viết nhà tù, trại tập trung khổ sai lao động là Trại học tập
cải tạo! Ở khắp nơi tôi đi làm chứng nhân, người ta đều hỏi tôi: “Ông được học
tập ra sao?” Và tôi đã trả lời: “Tôi chẳng được dạy dỗ gì cả. Người cộng sản có
một mục đích rõ rệt. Họ làm chúng tôi sợ hãi, bắt chúng tôi khổ cực và bỏ chúng
tôi đói. Càng kéo dài sự sợ hãi, khổ cực và đói, chúng tôi càng sa sút tinh
thần. Khi biết chúng tôi tàn lụi ý chí phấn đấu, đó là lúc họ thả chúng tôi về.
Và họ đã đạt kết quả. Đa số, chúng tôi về mất trí, thành phế nhân. Có nhiều
người đã được xuất ngoại chính thức theo chương trình ODP, sang Mỹ, sang Tây …
vẫn chưa hết ngẩn ngơ, ngơ ngác. Chúng tôi học tập sợ hãi, khổ cực và đói. Bất
cứ tù nhân nào vượt qua sợ hãi, khổ cực và đói, thì sẽ tự học ở đó những ý
nghĩa rạng ngời của cuộc sống, của lý tưởng chiến đấu cho tự do, dân chủ và
nhân quyền.” Tôi không dám nói thêm: "Nhưng không dám vượt qua sợ hãi, khổ
cực và đói thì sẽ ăn vụng thịt dưới bếp, ăn cắp cơm cháy, ăn tranh phần cơm heo
và tự đòng hóa mình với súc vật". Vậy thì, làm việc là danh từ hãi hùng
của tù nhân. Bạn sẽ mệt lữ cò bơ với làm việc. Làm việc ở đề lao Gia Định, là
bị truy nã dĩ vãng, hiện tại; ở Chí Hòa là bị đánh học máu mồm; ở các trại tập
trung là vào nhà lô, ăn đòn nhừ tử.
Tôi chưa bị ghẻ. Hồng Dương đã bắt
đầu. Nhờ không biết ăn mắm ruốc và cá biển, một vài mụn ghẻ nước của tôi chịu
thuốc xanh ngay. Tôi dùng mũi kim băng khều mụn, nặn đến máu chảy ra rồi thấm
khô, chấm thuốc. Là mụn ghẻ mọc mài. Mỗi tù nhân đề lao đều có một cái kim băng
và phải dấu kỹ. Khi bị ngứa, ngày cũng như đêm, tôi lấy bàn chải đánh răng chà
lên chỗ ngứa. Nếu gãi bằng móng tay, gãi cho đã, da sẽ bị xước. Và chỉ cần da
xước một tí là ghẻ mủ cấp kỳ. Ghẻ nhà tù “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc” hơn xã hội chủ nghĩa. Hàng chục thứ bệnh truyền nhiễm ở phòng giam tập
thể, nhưng tù nhân không được chích thuốc ngừa. Sự khôn ngoan chống ghẻ của tôi
bắt tôi phải đánh răng bằng cái bàn chải tôi đã gãi khắp thân thể. Không có sự
khôn ngoan nào không bị trả giá. Sự khôn lớn của con người bị trả giá đắt nhất.
Phòng 6C-1, ngoài mấy tên trộm cắp vô lại, mấy tên Mafia cơm nước, mấy “chuyện
buồn nhỏ nhặt”, không đáng chi phải để phòng. Tôi yêu nhóm anh em trẻ phản động
Hóc Môn, Bà Điểm. Người của Mười tám thôn vườn trầu đã được hai kép hát Út Trà
Ôn và Thành Được diễn tả điêu luyện và rung động trong Người ven đô như những
chiến sĩ “Chống Mỹ cứu nước” phi thường lại cũng chống cộng cứu nước phi
thường. Nếu tôi đã ngờ vực Trương Phiên, tôi hoàn toàn ngưỡng mộ và tin tưởng
tinh thần chống cộng của nông dân trẻ miền Nam. Bắt đầu, ở phòng 6C-1, tôi suy
nghĩ về cuộc tân cách mạng Tây Sơn 2. Tôi đã nói chuyện nhiều với nhóm anh em
Mười tám thôn vườn trầu. 6C-1 có một người tên Nga, tâm sự na ná Moritz của
Gheorghiu. Anh ta nuôi heo cho một chủ trại ở Thủ Đức. Vợ anh ta đã chết. Anh
ta làm gà trống chăm sóc đứa con gái 8 tuổi. Chủ trại bị bắt. Anh Nga bị bắt
theo. Người ta chụp lên đầu anh cái mũ phản động … nuôi heo để dễ ăn cướp bầy
heo. Anh Nga xin đem con gái vào tủ. Người ta từ chối. Cả ngày, anh ta ngồi xổm
trên thành hồ nước hết khóc lại thở dài. Này bạn chống cộng sản và bạn thân
cộng sản, có bao giờ bạn thấy một người vô sản ngồi khóc nhớ con trong nhà tù
cách mạng vô sản về tội nuôi heo? Chẳng bao giờ bạn thấy cả. Vì bạn không bao
giờ ở tù cộng sản. Vậy bạn nên suy nghĩ về cái gọi là bản chất và hiện tượng
cộng sản, xuyên qua thân phận người vô sản cùng khốn tên Nga. Chừng suy nghĩ
đắn đo, chín muồi, bạn sẽ có thái độ chính trị quyết liệt, dù chống cộng hay
thân cộng. Tôi vốn khinh bỉ mọi sự làm dáng chính trị. Nó không thấm khô nước
mắt của anh Nga nuôi heo, nó không lau sạch mủ ghẻ trên bục xi măng nhà tù.
Tôi chưa kể chuyện người bạn tuổi
nhỏ của tôi, nhà văn Từ Kế Tường, cũng bị bắt, bị đưa về đề lao Gia Định và đã
tạm trú ở 7 C-1. Từ Kế Tường trốn quân dịch. Giám đốc Nha Quân Pháp của Bộ Quốc
Phòng ký cho cậu ta đầy đủ giấy tờ hợp lệ như một sĩ quan. Từ Kế Tường lãnh
lương và đóng thêm tiền mồ hôi nước mắt, nộp cho cai thầu lính kiểng. Cậu ta
mặc quân phục, mang phù hiệu quân pháp, đeo lon thiếu úy công khai. Sau hai
năm, lên trung úy. Từ Kế Tường dại dột diện quân phục về ngõ nhà mình. Khi các
sĩ quan đi trình diện học tập hết, không thấy Từ Kế Tường ra đi, mấy đứa ác độc
gần nhà cậu ta tố cáo cậu ta trốn học tập cải tạo. Từ Kế Tường bị bắt. Nằm đề
lao chưa kịp ghẻ, nhờ ông bố tập kết bảo lãnh nên hồ sơ… lính kiểng được cứu
xét lẹ. Từ Kế Tường về đời xã hội chủ nghĩa, làm tới chức Chủ nhiệm Nhà Văn Hoá
quận 4. Báo Tuổi Ngọc phá kỷ lục vào tù. Chủ nhiệm Duyên Anh, chủ bút Đinh Tiến
Luyện, thư ký tòa soạn Từ Kế Tường. Cuối năm 1981, được tin tôi ra trại, Từ Kế
Tường, Nguyễn Thanh Trịnh, Đinh Tiến Luyện đến thăm tôi. Luyện đã phiêu lưu các
trại tập trung Suối Máu, Bù Gia Mập, Tống Lê Chân và làm nghề buôn bán hạt
giống, nước mắm. Trịnh làm công nhân xưởng dệt quốc doanh, cộng tác với báo
Tuổi trẻ. Phạm Đình Thống bán thuốc tây chợ trời. Chúng tôi vẫn dành cho nhau
nguyên vẹn tình cảm nhưng tư tưởng đã tạm ngăn cách. Và đó là nỗi buồn của chúng
tôi. Phạm Đình Thống khấm khá nhờ những kinh nghiệm và thủ đoạn chợ trời. Trước
ngày tôi bỏ Sàigòn, Thống mở hiệu bán thuốc với công ty bằng hữu ở đường Đồng
Khánh. Chẳng biết hiệu thuộc của Thống còn tồn tại? Từ Kế Tường đã bị loại khỏi
sinh hoạt văn nghệ. Nguyễn Thanh Trịnh mỗi năm chỉ được đăng hai truyện ngắn ca
ngợi lao động sản xuất. Đinh Tiến Luyện vượt biên hoài không nổi, đành kết hôn
với một nữ thuyền nhân hụt và yên phận chọn Tam Hiệp, Biên Hòa. Luyện đã có con
gái đầu lòng. Cuộc đời đã đổi thay hết.
Một thứ không hề thay đổi. Là cung
cách chiến đấu chống cộng sản. Một thứ dừng lại. Là tư tưởng văn chương của các
tiên chỉ, lý trưởng văn nghệ. Một thứ trở về. Là lối kiếm tiền chụp giật để
chóng giàu. Một thứ tiến bộ. Là tinh thần ăn cắp, ăn quỵt, chụp mũ.
Đầu tuần lễ thứ ba, sau khi điểm
tâm, chúng tôi được lệnh chuyển trại cả phòng. Lệnh khẩn trương. Tù nhân hạ bị,
giỏ, tháo gỡ hết giây, gom góp mọi đồ “tế nhuyễn”, đem ra xếp thứ tự thành một
hàng dài ngoài hành lang. Tất cả sợ hãi và băn khoăn. Ngày mai thăm nuôi,
chuyển trại đột xuất, chưa kịp báo tin, vợ con khuân quà cáp tới sẽ mất công
khuân về và sẽ lo lắng không hiểu chồng, cha mình ở đâu. Như ở bên Sở, tù nhân
được nhận quà của gia đình mỗi tuần một lần. Ngày này, danh từ cộng sản gọi là
ngày thăm gặp. Thực ra, không có thăm, cũng chẳng có gặp. Thân nhân bỏ quà cáp
(thịt khô, mì vụn, mắm ruốc, nước mắm, kẹo bánh, cà phê, thuốc lá, thuốc bệnh,
thuốc rê, thuốc lào, giấy quấn, diêm quẹt, trái cây… và 10 đồng) vào bị cói hay
túi vải, túi phân bón, kèm tấm giấy ghi các món quà. Công an kiểm soát các món
ở sân ngoài, rồi ký tên xác nhận lên tấm giấy “danh sách quà cáp”. Món nào cấm,
công an gạch xóa. Được nhận quà, thân nhân tin là tù nhân không bị kỷ luật, bèn
về ngay. Những người được Sở cho phép gặp tù nhân thì ngồi chờ trong phòng
khách. Các Trưởng phòng khiêng những túi quà vào một căn nhà khám xét quà cáp
của khu mình. Đề lao Gia Định có ba khu, mỗi khu một ngày nhận quà. Ở căn nhà
khám xét, công an chiếu cố quà cáp kỹ lưỡng. Món nào dính dáng tới nước mắm, bị
đổ ra cái thau nhựa. Đũa, muổng, dĩa khoắng, quậy, gắp, rỉa xem có thư gửi lén.
Rồi lại dồn vô túi ni-lông. Thịt kho ướp mắm ruốc, cá kho là vì cái thau nhựa
bới tung mắm ruốc, cá kho bới tung thịt.. Đường, cà phê… bị nắn bóp. Bánh chưng
bị cắt làm tư. Quà tù nghe chừng cũng đau đớn. Dưới mắt công an cộng sản, cái
gì của tù nhân phản động đều … phản cách mạng cả. Thuốc lá bị xé bao, dẫu là
thuốc lá cách mạng, dồn vào túi ni lông. Dồn cả 200 điếu. Vẫn thuốc lá ấy, nhà
tù mua giùm tù nhân thì để nguyên trong bao! Khám xét … nát quà cáp, rồi vất
bừa vô bị, vô giỏ. Lúc ấy, trưởng phòng khiêng về cửa phòng theo tên tù nhân và
số phòng. Cai ngục mở cửa. Tù nhân dở đồ ra sắp xếp. Chuối là dập nát. Xoài là
dập nát. Bún chả tanh mùi cá. Phở xào nặng hương vị mắm tôm. Mì vụn vương đầy
thuốc rê. Thăm gặp, dùng chữ của công sản, là một thủ đoạn. Đừng tưởng cộng sản
ban phát ân huệ. Thăm gặp nhằm những mục đích:
* Chính sách cải tạo của Đảng và Nhà
Nước nhân đạo.
* Đỡ tốn thức ăn và thuốc men.
* Tù nhân dinh dưỡng bằng thực phẩm
của gia đình mình sẽ khỏe mạnh để ở tù lâu.
* Cho tù nhân hưởng phè phỡn thành
thói quen. Sẽ dọa cúp thăm gặp làm áp lực tình cảm và vật chất.
Bởi vậy, ngoài thăm gặp hàng tuần,
còn cho mua hàng hóa hàng tuần. Tù nhân sợ chuyển trai, phần lớn, vì sợ mất
liên lạc gia đình, ít ra, nửa tháng. Đến trại mới được gửi quà.
Sau khi tù nhân ra ngoài hết, cửa
phòng khóa chặt. Mỗi tù nhân đứng cạnh hành lý của mình. Cai ngục điểm số.
Chúng tôi, từng người đọc tên và số thứ tự xếp hàng.
- Số 1, Vũ Mông Long.
- Số 2, Nguyễn Thanh Chiểu.
…
- Số 52, Lâm Văn Thế.
Điểm số xong, cai ngục nói:
- Các anh nhớ số của mình.
Cửa phòng lại mở. Chúng tôi nhận
lệnh trở vào. Cai ngục gọi:
- Số 1.
Tôi hô “có” và đi ra. Cai ngục bắt
tôi đứng nghiêm, dơ hai tay lên. Hắn rờ nắn thân thể tôi khám xét túi quần, túi
áo tôi. Những tên vệ binh đeo súng ngắn, đứng canh chừng. Khám người xong, cai
ngục bảo tôi đổ từng đồ “tế nhuyễn” ở túi, bị, giỏ ra. Hắn kiểm soát từng món,
cật vấn đủ điều. Thư vợ tôi gửi, cai ngục tịch thu. Ảnh vợ con tôi, hắn giữ lại
“nghiên cứu”. Hành lý của tôi bừa bãi trên nền xi măng của hành lang khu C. Cai
ngục hạ lệnh “Khẩn trương”. Tôi quơ vội nhét vào giỏ, bị. Nước mắm lẫn với quần
áo. Tôi được đem hành lý vào phòng. Tù nhân thứ hai, Nguyễn Thanh Chiểu, bị gọi
ra. Cứ vậy, tới tù nhân số 52. Một buổi tổng kiểm tra phòng. Cai ngục nói dối
chuyển trại để tù nhân có cất dấu cái gì trong phòng cũng sẽ phải thu quén bỏ
hết vào bị. Thêm một thủ thuật. Thủ thuật biến ảo. Nó không thành qui luật
chết. Nên tù nhân mắc bẫy dài dài. Lần sau chuyển trại thật sự, tù nhân tưởng
tổng kiểm tra, công kênh nhau dấu những thứ cần dấu trên những xà gỗ trần
phòng. Thế là vất lại những gì đã dấu. Nửa tháng, có khi một tuần, tù nhân,
tiếc rẻ món này bị tịch thu, mừng húm món kia thoát nạn. Là đầu óc bớt căng
thẳng, sự nổi loạn ở phòng giam được bảo đảm. Tôi đã nhìn rõ tôi qua hình ảnh
Thanh Thương Hoàng, Nguyễn Hải Chí và tất cả tù nhân đề lao ngoài ánh sáng. Mặt
chúng tôi trắng bệch, ngơ ngác. Mới đứng tại hành lang khám tư trang của tù
nhân đã thấy mình hèn mọn. Mọi sự hung hăng biến đâu mất. Tôi chợt nhớ bài thơ
L’albatros của Beaudelaire. Con hải âu đã rơi xuống sàn tàu. Tôi chợt nhớ bài
thơ Nhớ rừng của Thế Lữ. Con hổ đã nằm trong chuồng. Tôi chợt nhớ thiên hồi ký
ngắn của Nguyễn Mạnh Côn, nhắc lại kỷ niệm ở tù Việt Minh với nhà văn Trọng
Lang 3. Anh Nguyễn Mạnh Côn, viết rất thật, rất người rằng, vì thương con,
Trọng Lang đã lạy cộng sản để nó đừng giết mình. Trọng Lang đã phản ứng bằng
cách miệt thị Nguyễn Mạnh Côn nói láo. Tôi vừa tìm ra sự thật. Chưa có ai lạy
cai ngục cả. Nhưng tất cả đều lễ phép khi bị cai ngục cật vấn, xét hành lý. Tôi
lại chợt nhớ lời khuyên của Thanh Thương Hoàng bằng thơ Sông Hồ “Chuyện buồn
nhỏ nhặt liệu mà quên”.
Chúng tôi ăn cơm trưa muộn. Vì bận
bịu sắp xếp và treo hành lý tù. Buổi trưa, không ngủ, tôi mò sang chỗ ông Lâm
Văn Thế đánh cờ tướng. Đánh cờ để tâm sự. Chúng tôi nói thật nhỏ.
- Ông Thế, ông nghĩ bao lâu họ thả
chúng ta?
- Chịu. Không ai đoán nổi. Mọi suy
nghĩ về cộng sản của người quốc gia đều sai hết. Ông sẽ đi lao cải, sẽ về, tùy
vào sự ổn định tình hình sớm hay muộn.
- Còn ông?
- Tôi sẽ ở đây với các ông Thái Đen,
Nguyễn Thiện Giai, Như Phong chờ phép lạ. Hai nơi đến và đi của chúng tôi: Sở
và Đề Lao. Người ta không cho chúng tôi ra ánh sáng đâu.
- Tại sao?
- Chúng tôi là tự điển!
Tự điển, ông Lâm Văn Thế, thiếu tá
cảnh sát đặc biệt giải thích:
- Tôi đặc trách một cụm tình báo.
Rất nhiều cộng tác viên tình báo không có tên. Họ lãnh lương bằng hàng trăm mật
danh ổi, xoài, mít… Tôi cũng không thể biết mặt họ toàn thể. Một số nào quan
trọng thôi. Cơ quan của tôi, kẻ đã di tản, người trốn trình diện. Và tôi bị bắt
ngay đêm 30-4. Tình báo đánh giá đúng mức tình báo. Họ dùng tôi làm tự điển.
- Họ tra … ông?
- Phải. Bắt được nhân viên của tôi
trốn trình diện hay một người họ ngờ vực là cộng tác viên của tôi, trước hết,
họ khai thác người bị bắt. Nếu người bị bắt chối, họ bảo người bị bắt làm tự
khai danh dự, chấp nhận mọi hậu quả nếu gian dối. Rồi họ gọi tôi ra. Họ nêu tên
tuổi người bị bắt, hỏi tôi có quen biết không. Tôi nói không quen, họ dẫn tôi
về phòng. Rồi họ lại gọi tôi ra, cho tôi gặp mặt người mà tôi nói không quen
biết. Họ quan sát mặt chúng tôi, cử chỉ của chúng tôi để tìm ra sự thật.
- Nếu ông trả lời ông quen biết?
- Thì người chối không hề quen biết
tôi can tội gian dối. Và anh ta đích thị là công tác viên tình báo.
- Có trường hợp ngược?
- Có chứ. Tôi đâu biết người bị bắt
khai làm việc với tôi, tôi nói không quen. Họ dí vào mặt tôi tờ tự khai và dẫn
người bị bắt ra gặp tôi.
- Rồi sao?
- Tôi bắt buộc phải làm tự điển
trung thực.
Ông Thế buồn bã:
- Với công ăn ở bất cứ chế độ nào
ông có thể dấu diếm được tư tưởng trong đầu óc ông mà không thể dấu diếm được
các sự việc đã xảy ra. Ngoài tôi, còn các cuốn tự điển khác mà tôi không biết.
Có lẽ, họ cũng bị bắt sớm như tôi. Cá nhân tôi, tôi cũng chẳng rõ ai chạy
thoát, ai kẹt lại, ai trình diện, ai bị bắt, ai còn lẩn trốn. Họ sợ tình báo,
họ cần quét sạch tình báo, từ lính đen sĩ quan, từ gác cổng đến bưng nước văn
phòng.
Tôi hỏi:
- Như Phong dính dáng tình báo?
Ông Thế đáp:
- Ông ấy là tự điển Việt Nam Quốc
Dân Đảng.
Tôi đã thấy Trịnh Quốc Tài tự tra …
tự điển bên Sở Công An. Và tôi đã thấy ông ta tra bạn tôi, Thanh Thương Hoàng.
- Họ cũng tra tự điển tôi về các nhà
văn, nhà báo. Cơ quan của tôi không phụ trách “hồ sơ” văn nghệ sĩ.
Chúng tôi ngừng cuộc cờ. Tôi trở lại
chỗ của tôi, ngồi dựa lưng vào tường suy nghĩ. Có hai đối tượng cộng sản đang
truy lùng: Tình báo và đảng phải. Cộng sản thù hận các đảng Đại Việt, Duy Dân,
Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đó là mối thù “truyền kiếp”. Rất nhiều đảng viên của ba
đảng này không trình diện và tiếp tục chống đối cộng sản. Cụ thể hóa sự sợ hãi
và lòng thù hận của cộng sản là Mai Chí Thọ đã đích thân chỉ huy cuộc hành
quân, vây bắt trọn vẹn đàn ông (thanh niên, phụ lão) của hai làng Sống Vinh (Bà
Rịa), hai làng do Việt Nam Quốc Dân Đảng thành lập trong kế hoạch khẩn hoang
lập ấp của Phan Quang Đán. Họ sợ hãi những nhân vật chìm, những con bài chưa
lật tẩy. Thứ đã lật tẩy, đã om sòm tên tuổi cỡ Vũ Hồng Khanh, Hà Thúc Ký, Đặng
Văn Sung, Phạm Huy Cơ, đi hay ở, chẳng có gì quan trọng. Vũ Hồng Khanh, kẻ
ngang vai vế với Hồ Chí Minh (Ở bối cảnh lịch sử 1946, còn trên cơ là khác), đã
lẽo đẽo đi trình diện, đã trả lời câu hỏi “Tai sao ông chống cộng?” của tên
thiếu tá quân đội nhân dân như vầy: “Sống dưới chế độ miền Nam, không chống
cộng là chết!” Câu trả lời bất hủ nầy phẩm định giá trị chiến đấu của đại lãnh
tụ quốc gia. Ông Vũ Hồng Khanh đã già lắm, đáng lẽ, ông đã khước từ trình diện
và chỉ chấp thuận trả lời Phạm Văn Đồng, Trương Chinh. Ông đã sợ … chết già.
Ông ta ham sống như bọn lãnh tụ già bất tài vô tướng ham sống vậy. Câu trả lời
bằng tiếng nói đích thực của Vũ Hồng Khanh đã được truyền thanh khắp nước, ròng
rã hàng tháng. Biểu tượng quốc gia bị bêu nhục. Ông giáo Giản 4 đã tiêu diệt
các đảng phải quốc gia nhỏ để Việt Nam Quốc Dân Đảng của ông chiếm đa số ghế
trong Quốc Hội bịp 1946. Ông giáo Giản suýt thủ tiêu Nguyễn Mạnh Côn (Việt Nam
Phục Quốc Đảng), nếu Nguyễn Tường Tam không kịp can thiệp 5. Nhà lãnh tủ đa sát
này đã đứng giữa hoàng hôn giăng giối: “Sống dưới chế độ miền Nam, không chống
cộng là chết!” Chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Nguyễn Tú (ký giả nhật báo
Chính luận, tên thật Nguyễn Ngọc Tú, nhân vật quan trọng của Đại Việt quan lai,
từng chấp chính giữ ghế Tổng Giám đốc Nha Thanh Niên thời Tổng Trưởng Nguyễn
Văn Kiểu) bị bắt ngay đêm 30-4-75 mà Phan Huy Quát, cựu Thủ tướng, Chủ tịch
Liên Minh Á Châu Chống Cộng vẫn đạp xe mini suốt tháng 5-1975, Tự điển người!
Ghê gớm thay thủ đoạn cộng sản. Tôi bắt đầu lo ngại cho Thanh Thương Hoàng.
Anh ta đã thức giấc đúng lúc nước
sôi buổi chiều vào. Thanh Thương Hoàng pha cà phê mời tôi uống.
- Vụ ấy, mày không nhận là may. Anh
em bảo mày OK.
Tôi ngẩn tò te.
- Vụ nào?
Thanh Thương Hoàng cười ruồi:
- Vụ anh em đưa vợ con mày đi.
Tôi nhớ rồi.
- Bị bắt hết. Bị Mai Chí Thọ cài
người gài bẫy bắt hết.
- Có chuyến đi?
- Có. Chuyến đi dính lưới toàn bộ.
- Có chiến khu?
- Có. Một nhóm sĩ quan, một nhóm
lính. Đang nằm trong tay Quân Báo bên Tô Hiến Thành.
- Sao mày biết?
- Tao không dám ta-pi. Tao từ chối.
Một người quen thoát lưới chuyến đi, nhờ hối lộ tên công an Phước Tỉnh hai lạng
vàng, cho tao rõ. Mấy hôm sau, người ấy báo cáo thêm cả tổ chức bị sa lưới.
- Không phải là tao không nhận. Vợ
tao đau nặng hôm đó.
- Vận may. Đàn bà con nít không nên
vào tủ. Họ phải ở ngoài tiếp tế cho bọn mình.
Thanh Thương Hoàng thở dài:
- Bốn phương mù mịt cả. Tổ chức nào
cũng dính lưới. Có tổ chức cài người vào Phường, khi bị công an bảo vệ chính
trị bắt, Phường trưởng không tin người bị bắt là phản động. Trước hôm mày vô
6C-1, thằng Chín bị đổi phòng. Nó được cài vào huyện đội công an Thủ Đức. Nó
chửi Mỹ tổ chức chống cộng rồi xúi cộng sản bắt!
Tôi bỗng nhớ Trương Phiên. Người Mỹ
âm mưu gì nữa? Tôi hoàn toàn mù tịt. Vỗ vai Thanh Thương Hoàng, tôi hỏi:
- Mày thận trọng nhé! Tao thấy thằng
Trịnh Quốc Tài viết báo cáo có tên mày, Trịnh Viết Thành, Tô Ngọc. Mày dính
dáng Phủ Đặc Ủy Trung ương Tình báo hả?
Thanh Thương Hoàng giật mình:
- Không, không…
Tô Ngọc phục vụ cảnh sát đặc biệt để
trốn lính như Y Vân. Trịnh Viết Thành làm báo Quật Cường của Trung ương Tình
báo với Anh Quân. Còn Thanh Thương Hoàng chỉ tai tiếng vụ Làng Báo Chí. Anh ta
có dính liếu với Trung ương Tình báo hay không, tôi không biết. Nhưng khi tôi
nhắc nhở anh ta có tên trong báo cáo của Trịnh Quốc Tài, anh ta rầu rĩ vô cùng.
Sáng hôm sau, cai ngục đến 6C-1 trước giờ phát nước sôi. Tên hắn là Sáu, dân
Sàigòn, vì bị lé nên tù nhân tặng hắn biệt danh Sáu lé.
- Nguyễn Thanh Chiểu.
- Có
- Mặc quần áo ra làm việc.
Thanh Thương Hoàng vội vàng mặc bộ
bà ba vải mỏng, mầu gụ. Anh ta cầm đôi giép Nhựt bước tới cửa phòng. Tù nhân ra
làm việc, bất kể làm gì, đều phải ăn mặc tươm tất, đi giép. Đầu tóc có thể rối
bù. Râu ria có thể rậm rạp. Quần áo không thể thiếu nghiêm chỉnh. Ở đề lao,
hàng tháng, tù nhân được cắt tóc, cạo râu một lần. Tù cắt tóc cho tù. Cai ngục
đứng giám sát. Cuối khu C-1, người ta dựng cột lợp tôn làm cái chái. Do đó,
phòng 7C-1 thiếu ánh sáng. Tù nhân khu C-1 ra cắt tóc ở cái chái nầy. Buổi sáng
một phòng. Buổi chiều một phòng. Ba thợ cắt tóc tù làm việc khẩn trương. Cai
ngục mở cửa. Ba tù nhân ra một lượt. Cửa khép chặt, ấn khóa. Không có khăn
quàng. Không có dao cạo. Không có kéo. Không có gương. Tông-đơ Trung quốc lưỡi
thưa, thứ tông đơ cắt lông ngựa liếm tóc tù nhân. Giáo điều cắt tóc của cách
mạng vô sản:
- Cắt dài là thiếu nếp sống văn hóa
mới.
- Cắt trọc là chống đối.
Bởi thế, tông-đơ đẩy lưng chừng. Đẩy
xong những đường tóc, tông-đơ đẩy râu ria. Tông-đơ chấm bát luôn. Năm phút một
cái đầu. Cằm bị chảy máu, mép bị chảy máu, ráng chịu. Tông-đơ nhai tóc, đừng
kêu ca. Ba anh này vào, ba anh kia ra. Anh nọ soi gương bằng cách nhìn đầu anh
kia. Thấy mình giống quái vật. Cắt tóc xong thì bước vô phòng tắm, dùng khăn
khô phủi tóc cho nhau, đợi sáng mai hãy tắm (nếu cắt tóc chiều). Ngủ một đêm
với tóc vụn dính mồ hôi có sao. Ngứa thì gãi chung với gãi ghẻ cho tiến bộ,
đuổi kịp nếp sống văn hóa mới.
Đầu tóc, râu ria Thanh Thương Hoàng
khiếp lắm. Rõ là thằng tù! Sáu lé mở cửa. Hắn khóa lại. Tù nhân đi trước, cai ngục
đi sau, đề phòng đánh lén. Cách mạng luôn luôn cảnh giác cao. Sau bữa ăn sáng,
Thanh Thương Hoàng trở về. Anh ta mệt mỏi, bỏ cơm. Kẻng tù báo thức giấc trưa,
anh ta ra làm việc. Cứ vậy, sự làm việc của Thanh Thương Hoàng kéo dài cả tuần.
Trong khi ấy, Chóe, Hồng Dương, Thân Trọng Kỳ, Cao Sơn và tôi chưa bị gọi ra.
Một buổi tối, chúng tôi ngồi bên nhau hút thuốc lá, chuyện gẫu. Thanh Thương
Hoàng nói:
- Tao đã kết thúc tự khai.
Anh ta kể:
- Tao viết một câu rất hòa giải dân
tộc.
Thanh Thương Hoàng đọc:
- “Chúng tôi sẵn sàng bắt tay với
các anh xây dựng lại đất nước”.
Hồng Dương dẫy nẩy:
- Hỏng rồi.
Thanh Thương Hoàng vốn phục Hồng
Dương thông minh, đọc nhiều. Anh ta hỏi.
- Hỏng sao?
Tôi nhanh miệng đáp:
- Mày bỏ tù nó, mày viết thế là mày
cao thượng, quốc gia cao thượng. Nó bỏ tù mày, mày nói thế là mày xấc. Nó sẽ
hành mày. Nó ví chúng ta là thú vật. Mày hiểu chưa? Nó đòi cắt đuôi chúng ta để
chúng ta làm người. Sức mấy nó chìa tay cho mày bắt. Xấc thì hay đấy nhưng
thiếu lô-gích. Thằng nào chấp pháp mày?
- Hai Nghiêm.
- Dân gì?
- Quảng Bình.
- Nó đọc chưa?
- Rồi.
- Phát biểu?
- Tốt.
Hồng Dương lắc đầu. Hôm sau, Thanh
Thương Hoàng lại lên làm việc. Lúc về, anh ta uể oải:
- Chúng mày đúng. Nó bảo tay tao
chưa sạch tội ác. Tao chuẩn bị vào cachot. Nó bảo vậy.
Thanh Thương Hoàng sửa soạn hành lý.
Ngay buổi chiều, anh ta rời phòng 6C-1 vào cachot số 4 của khu C. Thanh Thương
Hoàng nằm cachot một tuần thì bị đưa trở lại Sở Công An. Từ đó, tôi mất tin
anh. Tháng 9 năm 1981, về đời, tôi biết anh bị lưu đày lên Pleiku cùng chuyến
đi với Doãn Quốc Sĩ. Gặp Sĩ, anh nói tác giả Cánh chim mỏi rã rượi lắm. Anh ta
rụng hết răng, tê liệt. Người vợ thứ nhất của Thanh Thương Hoàng là con gái của
Lê Khải Trạch đã không còn ở với anh từ lâu. Mọi sự nuôi anh trong tù do người
vợ thứ hai. Người nầy tiếp tế anh đầy đủ. Nhưng chị ấy đã vượt biên. Người vợ
thứ nhất lo việc tiếp tế. Chị ta nghèo, thiếu phương tiện thăm chồng xa xôi.
Thanh Thương Hoàng trở thành “con bà phước” ở rừng núi Gia Trung 6. Anh ta hào
sảng lắm, ở Sở Công An, ở đề lao Gia Định. Trên Pleiku có ai hào sảng với anh?
Tất cả đã là tù nhân. Tất cả đều là bạn tù. Bạn tù trong danh ngôn nghiệt ngã
“Bạn tù, tình nhà thổ”. Khi nỗi khổ kéo dài mòn mỏi, khi sự phú quý đi giật
lùi, con người đâm ra bần tiện, chỉ còn biết nghĩ đến mình. Mọi thù hận lẫn
nhau phát xuất từ đó. Anh em nguyền rủa lẫn nhau, nói xấu lẫn nhau. Ra khỏi tù,
anh em không quên thù hận, vẫn nguyền rủa nhau, nói xấu nhau, gặp nhau không
thèm nhìn mặt. Đó là mục đích trong những mục đích của học tập cải tạo tư
tưởng!
Chú
thích
1 Đọc Sỏi Đá Ngậm Ngùi, cùng một tác
giả, Nam Á Paris xuất bản 1985.
2 Trong bộ tiểu thuyết Hồn Say Phấn
Lạ, tôi khai triển tư tưởng cách mạng Tây Sơn.
3 Đã đăng trên tạp chí Bách Khoa,
tôi quên số và tháng, năm phát hành.
4 Vũ Hồng Khanh, xuất thân là giáo
làng.
5 Đọc Hồi Ký Nguyễn Mạnh Côn, tạp
chí Bách Khoa.
6 Nghe nói anh đã được tha vào năm
1986.
CHƯƠNG
13
Cùng buổi chiều Thanh Thương Hoàng
vào cachot, Hồ Văn Đông, Trịnh Viết Thành, Như Phong, Doãn Quốc Sĩ cũng túi bị
vào cachot. Chủ nhiệm nhật báo Quyết tiến trụ trì cachot số 6. Chủ bút nhật báo
Quật Cường trụ trì cachot số 3. Tác giả Sầu mây chiếm cachot số 11. Tác giả
Khói Sóng 1, cuốn tự điển Việt Nam Quốc Dân Đảng, cắm dùi ở cachot số C-2.
Những cachots còn lại của C-1 dành cho quý vị đại đức Ấn Quang. Thượng tọa
Thích Quảng Độ trụ trì cachot số 7. Được đúng tuần lễ, kể từ hôm Thanh Thương
Hoàng giã từ 6C-1, ba chúng tôi, Hồng Dương, Nguyễn Hải Chí, Duyên Anh, nhận
lệnh rời phòng. Người công an chấp pháp nói: “Các anh cần đổi nước”. Chúng tôi
đã tưởng đi xa. Cuối cùng thì Nguyễn Hải Chí sang khu A; Hồng Dương và tôi vào
1C-1, cái phòng bẩn cả nội dung lần hình thức. Thời gian này, cửa nhà giam đã
trổ rộng một nửa gần chấn song và ống nước đã vô phòng. 1C-1 hưởng dưỡng khí và
ánh sáng 24/24 đầu tiên. Trưởng phòng 1C-1 tên là Nguyễn Hữu Trí. Hắn vốn làm
tài xế tắc xi sau khi giải ngũ. Ở quân đội, hắn đeo lon thượng sĩ. Hồng Dương
miệt thị hắn là Trá xế. Trí cấu kết với Viên và Quang. Về sau ba đứa tách rời.
Cả ba cùng vượt biên đường bộ, bị bắt ngay tại bến xe đò Pleiku. Phó phòng tên
Đảm, quen biết chúng tôi bên Sở Công An. Đa số tù nhân bên 1C-1 là những người
tuổi trẻ, đủ thành phần, vượt biên đường bộ, từ Pleiku, Bạn Mê Thuột chuyển về.
Chế độ nhà tù ở Pleiku, Ban Mê Thuộc
hết sức tồi tệ. Tù nhân bị tịch thu hết, chỉ còn bộ quần áo dính thân thể. Họ
không được tắm gội cả tháng nên ghẻ lỡ kềnh càng, chấy rận lổn ngổn. Ở mấy nhà
tù cao nguyên, nhóm tù nhân này đã hục hặc nhau, chia bè kết đảng. Và bộ ba
Trí-Viên-Quang bị bọn trẻ thù ghét. Trở về đề lao Gia Định, Nguyễn Hữu Trí vẫn
làm trưởng phòng. Giữa hắn và phó phòng Đảm không ưa nhau. Thêm thư ký Miên coi
thường hắn nên hắn bám chặt cai ngục. Hắn chỉ sợ mất chức trưởng phòng. 1C-1
ngoài Nguyễn Hữu Trí nham hiểm, còn có “nghệ sĩ” Ngô Văn Sự. Tên này bị gù, có
tài về trang trí. Sử nói phét thánh trời. Hắn tự nhận hắn là Chóe, quen thân
với Nhã Ca, Duyên Anh, Doãn Quốc Sĩ… Bất ngờ chúng tôi vào 1C-1, Ngô Văn Sử bị
anh em lột mặt nạ. Đó là sự bất hạnh của hai chúng tôi. Sử được ra ngoài sơn
cửa các phòng tù. Hắn cấu kết với Trí. Hồng Dương và tôi là hai đối tượng báo
cáo của hai đứa. “Chuyện buồn nhỏ nhặt liệu mà quên”. Tôi không quan tâm hai
thằng vô lại này mà rất quan tâm chấy rận vượt biên xâm lăng tôi.
Tôi bắt đầu ghẻ nhiều ở 1C-1. Chúng
tôi vẫn chưa được gặp vợ con. Đúng lúc ghẻ hành hạ tôi, vợ tôi viết thư báo tin
buồn: “Ông ngoại đã chết. Em mặt áo tang đến xin gặp bố, người ta từ chối”.
Thật sự, tôi muốn quên chuyện gia đình. Nhưng muốn quên thật khó. Mà nhớ thì
lòng dạ như bị xát muối. Nhìn khuôn mặt hốc hác của Trịnh Viết Thành dán chặt
vào ô cửa gió cachot số 3, Hồng Dương bảo tôi:
- Sắp đến lượt mình.
Tôi không sợ cachot. Tôi thèm nằm
cachot. Rất giản dị, ở cachot, tôi chẳng cần đề phòng ai. Cachot đề lao Gia
Định lý tưởng lắm, nếu không bị còng tay chéo chân để ngủ ngồi. Nhờ ghẻ nặng,
tôi loay hoay với ghẻ cả ngày. Khởi sự là ghẻ nước. Ghẻ mọc từng cụm trên mu
bàn chân. Vừa khều nặn xong vài mụn, vài mụn khác đã mọc quanh. Chuyện khó tin
mà có thật. Cả 1C-1 ghẻ. Ngót 50 tù nhân ngồi nặn ghẻ mủ, ghẻ nước. Tất cả bị
nấm tấn công “hạ bộ”. Đàn Ta-Lư gẩy liên miên. Cơ thể tôi thiếu sinh tố.. Da
khô và mỏng. Chất nhờn trên mặt da không bài tiết nữa. Ở 6C-1, tôi nặn hết
nước, nặn ra máu, thấm khô rồi bôi thuốc xanh, mụn ghẻ chịu ngay. Ở 1C-1, nặn
hết nước, bôi thuốc, nước cứ đùn ra. Nước đùn rạ, ghẻ mọc thêm. Ghẻ mọc cả trên
mụn ghẻ mới khỏi. Ghẻ tấn công ngược. Bắt đầu ở chân, rồi lên đùi, háng, mông.
Ghẻ nước lỡ toét bị nhiễm trùng thành ghẻ mủ. 1C-1 có mấy “dũng sĩ” ghẻ. Hai
cẳng ghẻ cơ hồ cơm cháy đắp lên. Nước vàng ri rỉ cả ngày. Bục xi-măng nhớp
nhúa. Manh chiếu khô cứng máu mủ, nước vàng. Mùi vị tanh tưởi nồng nặc. Tôi đã
ăn, ngủ, hít thở cùng mùi vị tanh tưởi mủ ghẻ ấy. Khi ghẻ mủ mọc khắp cẳng, đùi
và đầy mông, tôi mất ngủ. Nằm nghiêng hằng đêm, tôi thao thức. Các bạn trẻ của
tôi nhờ dễ ngủ mà bớt ngứa, bớt đau. Nhức ghẻ mủ, ngứa nấm ăn “hạ bộ”, hai cái
thái cực quái đản nầy tưởng xa mà gần, tưởng mơ hồ mà hiện thực. Tôi vốn khổ từ
niên thiếu. Những nỗi khổ tôi đem vào đời, những nỗi khổ tôi làm cuộc đời tôi,
tôi ngỡ đã ghê gớm lắm. Vất đi tại đề lao Gia Định. Vất hết đi. Tôi nằm nghiêng
trên hai gang chiếu của phòng 1C-1, ngửi mùi tanh mủ ghẻ, nuốt đắng cay, nghiến
răng chịu nhức nhối. Để nhập môn thống khổ.
Sau khi đi học tập viết tự khai và
sau khi viết tự khai tại phòng, người ta tách Hồng Dương khỏi tôi. Hồng Dương
từ giã tôi. Từ đó tới nay, tôi chưa gặp lại. Tôi không tin tên Nguyễn Hữu Trí
báo cáo Hồng Dương. Thời gian chuẩn bị thẩm vấn, người ta cách ly chúng tôi. Để
tránh trao đổi ý kiến. Hồng Dương đi, 1C-1 có thay đổi. Anh em vượt biên được
gia đình tiếp tế. Xà phòng tắm gội. Quần áo cũ loại bỏ. Phòng bớt tanh và chấy
rận bớt dần. Viên đi. Quang đi. Đảm đi. Nguyễn Hữu Trí hòa hoãn với thư ký
Nguyễn Hữu Miên và mọi người. Vợ hắn không nuôi hắn. Hắn chợt hiểu cai ngục
không cho hắn mì vụn và uống cà phê. Hắn bám anh em. Ngô Văn Sự chuyển trại.
Mọi việc bình thường. Tôi bình yên nằm nghiêng nghe mủ mưng trên cơ thể. Lãng
mạn một chút, tôi bảo thống khổ mưng giữa nỗi đời cơ cực của tôi.
Tháng 7, 1976, đề lao Gia Định tiếp
nhận hàng ngàn tù nhân phản động bình dân. Gọi là phản động bình dân để phân
loại. Ngày 30-4-75, các nhà tù thành phố được giải phóng hết. Nhưng 1-5, nhà tù
mở cửa đón khách mới. Lâm Văn Thế là khách khai trương. Từ tháng 6-1975 đến
tháng 5-1976, đề lao tiếp nhận tù nhân phản động trí thức. Thời điểm rực rỡ này
là thời điểm của sinh viên, học sinh, luật sư, giáo sư chống phá cách mạng. Bây
giờ là thời điểm của nông dân, công nhân, phu nhà đòn, lơ xe đò, du đãng… Những
nhà nghiên cứu Mác xít sẽ nhức đầu về hiện tượng phản động bình dân. Ngoài tù
nhân phản động bình dân, tháng 7-1976, đề lao cũng tiếp nhận hàng ngàn tù nhân
vượt biên bị bắt. Người ta sắp xây thêm các khu D, E… 1C-1 phải chứa 60 tù
nhân! Tôi đã phiêu bạt khá nhiều phòng giam của đề lao Gia Định. Và tôi có một
nhận xét: Tỷ lệ đại đức thượng tọa vượt biên 1%, linh mục 99%; tỷ lệ đại đức
thượng tọa phản động 99%, linh mục 1%. Những người vượt biên thuộc đủ mọi thành
phần xã hội. Vượt biên đường biển thì bị chặn bắt ngay tại Phú Lâm. Vượt biên
đường bộ thì bị chặn bắt ngay khi vừa bước xuống các bến xe đò Pleiku, Ban Mê
Thuột. Hài hước của vượt biên đường bộ có ông giáo sư họ Mai là biểu tượng. Ông
này mang theo ba đôi giày deluxe, hai bộ complet, chục cái cà-vạt, chuẩn bị họp
báo ở Vọng Các. Bi thảm thì có cậu cháu anh thợ hàn xì lạc rừng mây ba ngày,
đói quá, bẻ trộm bắp, bị mọi cộng bắt trói đem giao nộp Việt cộng. Đúng lúc
1C-1 đông nghẹt, tôi được gọi ra làm việc. Người ta dẫn tôi sang phòng chấp
pháp khu B. Tôi cặm cụi đi, không nhìn ngang nhìn dọc. Công an chấp pháp ngồi
đối diện tôi. Hắn ta cao lớn, mặt rỗ hoa mè, mặc áo sơ-mi mầu trứng sáo. Chỉ
cái ghế trước bàn giấy, hắn bảo tôi ngồi.
- Tôi xin anh một ân huệ?
- Gì?
- Tôi bị ghẻ mủ đầy mông, anh cho
tôi ngồi nghiêng.
- Không. Anh phải ngồi ngay ngắn. Vì
anh làm việc với đại diện của Đảng (Hắn dân Bắc kỳ, giọng nói miền biển Tiền
Hải)
- Hiểu chưa?
- Tôi hiểu.
Tôi đã đụng độ ba thằng việt cộng
đằng đằng thù hận. Thằng thứ nhất bên Sở Công An, phòng lý lịch. Nó quát tháo
khi thấy tôi ngồi gác chân. Nó bắt tôi ngồi nghiêm túc và mang tội thiếu… văn
hóa. Thằng thứ hai ở đề lao. Nó đến cửa 6C-1 ghi lý lịch tôi. Nó mắng tôi nói
láo vì tôi khai tôi là nhà văn chế độ cũ. Nó muốn tôi khai tôi là tay sai chế
độ cũ. Thằng thứ ba đang đứng trước mặt tôi. Hắn nhìn tôi, hất hàm:
- Khi các anh bắt cộng sản, các anh
đối xử thế nào?
Tôi chưa ngồi, tôi vẫn đứng.
- Chúng tôi không bắt ai. Chúng tôi
không có quyền bắt ai. Chúng tôi không thích bắt ai.
Tôi nói thêm:
- Nhà văn không phải là nhà cầm
quyền.
Phản ứng của tên chấp pháp Bác Kỳ là
nụ cười nửa miệng.
- Anh không phải là ngụy quyền?
Tôi đáp:
- Phải.
Hắn dập điếu thuốc lá:
- Nhưng anh là tay sai của ngụy
quyền, các anh là tay sai của ngụy quyền, bọn nhà văn Sàigòn là tay sai của
ngụy quyền.
Tôi nói:
- Đó là ý nghĩ của anh.
Hắn gằn giọng;
- Của nhân dân. Các anh nhận tiền
của Mỹ, của Ngụy chống phá cách mạng, tạo ra chiến tranh tâm lý. Anh muốn tôi
kể tên những thằng chống cộng ăn lương Mỹ Ngụy không?
- Anh đừng kể.
- Anh xấu hổ à?
- Tôi đã biết. Chính chúng tôi đã
công kích chúng nó công khai.
Chúng nó. Chỉ có vài thằng thôi! Đứa
lấy tiền của Juspao, của Usis qua trung gian Lý Trung Dũng. Đứa lấy tiền của
Ngô Đỉnh Diệm qua trung gian Bùi Kiến Tín. Đứa lấy tiền của Sở Nghiên Cứu Chính
Trị. Đứa lấy tiền của Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia. Đứa lấy tiền của Asian
Foundation… Toàn những khuôn mặt khoa bảng và văn nghệ hàng đầu cả. Hai ba đứa
làm tôi mọi cho đài phát thanh chiến lược Mỹ. Những thằng nhà văn “for rent”
này đã chuồn hết. Chúng tôi ở lại chịu nhục. Chịu nhục với công sản chưa đủ,
còn bị chúng nó bêu nhục trên đất Mỹ. Tôi đã cố dằn phẫn nộ để im lặng về thái
độ bần tiện của chúng nó khi chúng nó toa rập nhận chìm tôi xuống bùn nhơ. Rõ
rệt, chúng nó đã “bắt nạt tôi những ngày đầu lưu vong của tôi".
- Anh công kích?
- Người khác.
- Ai?
- Anh có đọc một bài báo của Nguyên
Sa không?
Hắn bảo tôi:
- Anh ngồi xuống.
Tôi hỏi:
- Ngồi nghiêng?
Hắn lắc đầu:
- Ngồi ngay ngắn, ngồi nghiêm túc.
Tôi ngồi ngay ngắn. Nỗi đau khác đã
làm bớt nỗi đau ghẻ mủ. Tôi biết sức nặng của phần trên thân thể đã bắt những
mụn ghẻ mủ ở mông tôi vỡ ra. Tên công an chấp pháp biết rõ hơn. Hắn thích vậy.
Hắn muốn nhìn tôi đau đớn. Bao thuốc chìa ra, hắn mời:
- Anh hút thuốc.
Tôi rút một điều thuốc Vàm Cỏ. Hắn
quẹt diêm cho tôi mồi thuốc.
- Tôi gọi anh ra để mạn đàm.
Hắn nhả khói thuốc.
- Mạn đàm cũng là làm việc đấy.
Cuộc mạn đàm bắt đầu.
- Anh xa nhà mấy tháng rồi, anh
Duyên Anh, thần tượng của tuổi trẻ?
Giọng mỉa mai, hắn bĩu môi nói hai tiếng
“thần tượng”. Mạn đàm với hắn là vấn nạn, đối với tôi, với chúng tôi, những nhà
văn, nhà thơ bị bỏ tù.
- Tôi không là thần tượng của ai cả.
Tôi đã viết điều này. Làm thần tượng có hai điều khổ. Một, trở thành nô lệ của
những kẻ phong tước vị cho mình. Hai, sẽ bị đạp đổ.
- Anh đã được coi là thần tượng?
- Tôi thành thật khước từ.
- Tại sao?
- Tôi thích tự do làm theo ý của
tôi. Thần tượng, tôi phải làm theo ý của người khác. Khác ý họ, tôi bị đạp đổ
nhục nhã. Nhưng thần tượng là cái gì? Theo tôi, thần tượng là đất nung, gỗ đẻo.
- Anh ám chỉ ai?
- Tôi nói tôi.
- Mà anh mà là thần tượng à?
- Anh vừa bảo tôi là thần tượng.
- Anh tin tôi thành thật ư?
- Cách mạng không bao giờ gian dối.
Hắn nhìn thẳng mặt tôi, đôi mắt hắn
long xồng xộc:
- Lũ các anh là thần tượng móc méo,
xỏ xiên. Tôi hỏi anh xa nhà mấy tháng rồi?
Hắn chuyển đoạn cau có. Tôi chậm rãi
đáp:
- Tôi vào tù từ 8-4.
- Ai bảo anh vào tù?
- Cán bộ Ba Trung bên Sở.
- Anh đi học tập cải tạo tư tưởng.
- Tôi xa nhà.
- Anh xa nhà đi hoc.
- Vâng, tôi xa nhà đi học được bốn
tháng rồi.
- Thấy thế nào?
- Nhớ vợ, thương con.
- Có vậy thôi?
- Phải, có vậy.
- Không thấm thía à?
- Không.
- Thế là chưa tiến bộ, chưa có
chuyển biến tư tưởng. Anh cần học tập lâu hơn.
- Tùy anh.
- Tùy ở chính bản thân anh đấy.
Thằng rỗ mặt hoa nầy coi bộ đã nhận
chỉ thị áp đảo tinh thần tôi. Tất cả những nhà văn, nhà thơ làm việc, bị mạn
đàm đều bị làm khán giả xem kịch sĩ công an thủ các vai Ác và Thiên. Hễ hôm nào
bị Ác át giong, ngày mai sẽ được Thiện vuốt ve. Ác bít lối, Thiện mở đường.
Thiện thỏa mãn yêu sách chưa được thực hiện, Ác đã xoá bỏ ngay tức thì. Thằng
mặt rỗ hoa mè mặc áo sơ mi mầu trứng sáo, tháng 6 năm 1977, gặp Doãn Quốc Sĩ ở
3C-1, kể lại cuộc mạn đàm, anh Sĩ nhận ra “cố nhân” liền. Anh Sĩ nói: “Nó đã
dọa chặt tôi ra làm ba khúc xem thân thể tôi có là kim cương. Chính nó tống tôi
vào cachot.”
- Anh Duyên Anh.
- Tôi nghe.
- Đồng chí Ba Trung bảo anh vào tù
là đúng.
- Tôi không xa nhà đi học?
- Anh nằm tù.
- Anh vừa nói …
- Bây giờ là chân ly, anh nằm tù.
Anh nằm tù suy nghĩ tội ác. Các anh nằm tù suy nghĩ tội ác.
Bổng hắn hất hàm:
- Thằng Doãn Quốc Sĩ thế nào?
Tôi thừa hiểu, khi chúng nó nói
chuyện với nhau, khi chúng nó nói với anh em của tôi, chúng nó cũng gọi tôi là
thằng Duyên Anh, như lãnh tụ của chúng nó mở miệng là thằng Diệm, thằng Nhu…
- Đó là thằng được nhiều người kính
trọng.
- Thằng Doãn Quốc Sĩ được nhiều
người kính trọng? Nó ví Hồ Chủ Tịch là chồn tinh chín đuôi. Vũ Hạnh báo cáo
thằng Sĩ thường nhục mạ Bác. Sàigòn có ba thằng đáng tội chém. Thằng Doãn Quốc
Sĩ viết cổ tích lăng mạ lãnh tụ Hồ Chí Minh. Thằng Chóe vẽ cờ tổ quốc cắm lên
cán chổi. Còn anh, anh ví cờ tổ quốc với xì-líp đàn bà có kinh. May cho các
anh, Biệt đôi bận việc khác, chứ không, các anh đã ăn đạn như thằng Chu Tử.
Chu Tử viết Ao thả vịt của nhật báo
Sống, chê “Hồ chủ tịt làm thơ như cục kít”. Tôi xin phép được nói rõ về trường
hợp Chu Tử và sau đó, một vài trường hợp ngộ nhận quốc gia sát hai quốc gia.
Thuở báo Sống chống đối sự thừa thắng xông lên của các ông sư chính trị, nhóm
Phật giáo quá khích đã đốt tòa soạn Sống, đốt luôn chiếc xe Vespa mới toanh của
nhân viên trị sự tên là Vũ Hải Vân. Chu Tử nổi giận. Nhật báo Sống đánh sư
chính trị, sư thành phố thả giàn. Chu Tử bị mưu sát. Chúng tôi quả quyết thủ
phạm là thượng tọa Thích Thiên Minh. Báo chí Sàigòn tỏ thái độ với Phật tử ồn
ào xuống đường và lãnh tụ của họ. Tự nhiên, nhà cầm quyền hưởng lợi. Chẳng cần
thuê mà báo chí xúm nhau “mần thit” những kẻ chống đối mình. Rồi thượng tọa
Thích Thiên Minh bị mưu sát. Phật giáo Ấn Quang đổ riết tội cho nhà nước. Nhà
nước, nhà chùa, nhà báo chơi nhau lung tung beng. Nhà báo bảo nhà chùa … dàn
cảnh. Đến khi chết giữa biển và chết trên quê hương, Chu Tử vẫn tưởng Thích
Thiên Minh bắn mình và Thích Thiện Minh vẫn tường nhà nước hại nhà chùa. Tôi,
nhờ nhà tù, tai nghe rõ cộng sản xác nhận họ bắn Chu Tử. Họ gây xáo trộn tình
hình Sàigòn. Từ đó, tôi nhận diện thủ phạm ám sát Nguyễn Văn Bông và Trần Văn
Văn. Tôi vốn không ưa ông Kỳ và không hưởng bổng lộc gì của ông Loan, nhưng tôi
muốn đóng góp một chút sự thật vào sự thật của lịch sử. Trong cuốn Một người
tên là Trần Văn Bá, tôi viết ông Nguyễn Cao Kỳ và ông Nguyễn Ngọc Loan không hề
ám hại nhà chính khách đối lập Trần Văn Văn. Thủ phạm vẫn chỉ là việt cộng, tác
giả các vụ Chu Tử, Thích Thiện Minh, Nguyễn Văn Bông, Trần Văn Văn,… Phản ứng
của bà Trần Văn Văn là, căn cứ vào một tờ báo lưu vong xuất bản tại Úc Đại Lợi,
ký tên một tác giả không ai biết, vẫn khẳng định Kỳ, Loan giết chồng bà. Những
ngộ nhận tại hai điển hình vừa kể, cần phải chấm dứt. Còn ngộ nhận là còn chơi
trò chơi tạo mâu thuẫn của cộng sản.
- Tại sao anh dám ví cờ tổ quốc với
xì-líp đàn bà có kinh?
- Tôi không biết trả lời.
Trả lời thế nào? Trả lời hôm nay,
khi ngồi viết hồi ký ở Ivry Sur Seine rằng, tôi ví cờ tổ quốc của anh với
xì-líp đàn bà có kinh vì tôi ghê tởm cờ tổ quốc anh. Tôi không ham nói phét,
dẫu nói phét không bị đánh thuế và dẫu có thể được coi như ngục sĩ anh hùng.
Cuộc đời đã thừa thãi những anh Rambo, chẳng nên thêm tôi. Ở cuốn Đàn bà, người
đàn ông bị vợ từ chối không cho làm tình, gã hỏi “Hôm nay em kéo cờ cộng sản
hả?”. Tôi dám ví cờ đỏ sao vàng với xì-líp đàn bà có kinh? Cộng sản chụp mũ
tôi. Họ ví chứ tôi không ví.
- Anh chỉ biết viết?
- Tôi không biết trả lời.
- Anh không trả lời?
- Anh hiểu tôi khó trả lời mà.
- Anh cần suy nghĩ.
- Phải.
Hắn tống tôi vào cachot khu B, khóa
chặt cửa gió, không cho tôi về 1C-1 thu dọn hành lý, không phát chiếu, không
còng tay. Cuộc mạn đàm kết thúc như vậy. Tôi có dịp biết cachot. Và tôi bằng
lòng ở cachot. Cachot là phòng lý tưởng của khách sạn quốc doanh đề lao. Đang
nằm nghiêng trên hai gang chiếu ở cái phòng tập thể nhung nhúc tù nhân, nồng
nặc mùi mồ hôi, hôi nách, ghẻ mủ, được nằm thoải mái một bục xi-măng láng
coóng, yên tĩnh, cầu tiêu, vòi nước riêng, tôi cảm giác mình được cách mạng đãi
ngộ. Đối diện dãy cachot nhốt tôi là các phòng tập thể khu B dành riêng cho nữ
tù nhân. Tôi không nhìn thấy ai cả. Thú thật, lúc ấy tôi quên sợ hãi. Càng ở tù
lâu, hai chữ cũng đành càng lớn và cảm giác sợ hãi nhỏ dần. Ngồi mạn đàm với
đại diện của đảng cộng sản quang vinh, những mụn ghẻ mủ ở mông tôi vỡ ra, ướt
nhẫy đít quần. Bây giờ, quần bám chặt vào mụn ghẻ tạo thành mảng mài lớn, khô
cứng. Tôi không dám gỡ ra, sỡ máu sẽ chảy và lại thành mảng mài lớn. Với riêng
nỗi khổ ghẻ mủ, tôi đã muốn ngồi lên mặt những đứa bịa đặt chuyện bêu nhục tôi
ở tù bằng cái đũng quần cứng khô máu mủ. Nhưng mà tôi đã ngồi lên mặt chủ nghĩa
cộng sản. Như thế hách hơn.
Người ta không cho tôi ăn cơm trưa,
không cho cả nước sôi. Tôi ghé miệng vào vòi nước, vặn rô-bi-nê uống nước phông
tên. Rồi tôi nằm duỗi chân, dang chân thoải mái mà ngủ. Cơn mưa lớn đã ru tôi
ngủ ngon. Khi tôi thức giấc, mưa đã tạnh và ngọn đèn vàng trong cachot đã bật.
Mụ cai ngục lùn, mắt lé mở khóa. Tên công an chấp pháp mặt rỗ huê đợi tôi bước
ra. Hắn hỏi tôi:
- Anh suy nghĩ chưa?
Tôi nói:
- Đói quá, tôi không suy nghĩ được.
Hắn nín thinh dẫn tôi về khu C-1,
giao tôi cho cai ngục. Tôi trở lại 1C-1 ồn ào và tiếc rẻ cachot khu B. Sáng sớm
hôm sau, trước cả giờ báo thức, cai ngục gọi tôi ra làm việc. Tên công an rỗ
hoa dẫn tôi ra khu A, tống tôi vào cachot. Nhờ ví cờ cộng sản với xì-líp đàn bà
có kinh, tôi biết thêm cachot khu A, khu sát khít trường Hồ Ngọc Cẩn. Hôm nay
tôi bị còng tay chéo sau lưng. Vẫn bị cúp bữa cơm trưa, cúp nước sôi. Chập tối,
tên công an rỗ hoa lại dẫn tôi về khu C-1. Một tuần liền, sáng sớm tinh mơ tôi
vào cachot, chập tối tôi ra cachot với vài kiểu còng tay, còng chân. Bố tôi,
tháng 9-1975, đi lẻn vào Sàigòn, dạy tôi kinh nghiệm ngục tù: “Ăn ít, dù gia
đình tiếp tế đầy đủ. Tập thắt dạ dày, vì, sẽ bị nhịn vài ngày”. Nhờ kinh nghiệm
của bố, được … học tập ăn một bữa suốt tuần, tôi đã tồn tại.
Trò chơi của tên công an chấp pháp
rỗ hoa đến đó là chấm dứt. Hắn không cho tôi ngủ đêm ở cachot. Hắn cũng quên
hỏi tôi “Suy nghĩ chưa”. Tôi bị bỏ rơi ba ngày liền. Lúc này, Doãn Quốc Sĩ đã
từ cachot 12 chuyển về cachot số 1 đối diện phòng tập thể của tôi. Trịnh Viết
Thành, Hồ Văn Đông bị sang Sở Công An. Chuyến đi này có thêm Nguyễn Mạnh Côn.
Bên cachot C-2, Như Phong vẫn khước từ viết tự khai. Bệnh ghẻ mủ của tôi không
thuyên giảm. Có mòi tăng triển. Ghẻ báo động … đỏ. Mỗi tuần, vào buổi trưa
nắng, đề lao cho tù nhân ra phơi nắng 10 phút. Phòng này vào, phòng kia ra. Tù
nhân ngồi nguyên chỗ của mình. Các cửa gió của cachot đóng kín, đề phòng liên lạc
bằng dấu hiệu. Mười phút nắng chỉ làm ghẻ buồn cười. Hôm tắm nắng, đồ đạc treo
lên hết. Trực sinh rửa phòng và y tế xịt thuốc trừ chấy rận. Tôi khám phá ra sự
thiếu máu. Ở ngoài nắng bước vô, mắt tôi mờ đi mấy phút. Tôi ôm mặt đứng. Cứ
ngỡ mình đã bị lòa. Tôi thèm nói chuyện mắt với Doãn Quốc Sĩ. Anh ta không hề
dán mặt vào ô gió cachot như những tù nhân khác. Sáng sớm, Sĩ chạy tại chỗ. Rồi
thiền và ngủ. Vợ tôi vẫn tiếp tế đều đặn. Qua ba ngày không thấy tên công an
chấp pháp rỗ hoa gọi ra, tôi ngỡ đã yên thân. Tôi nhầm. Cai ngục lại réo tên
cúng cơm của tôi.
- Vũ Mộng Long.
- Có.
- Mặc quần áo ra làm việc.
--------------------------------
1 Viết tiểu thuyết, Như Phong ký Lý
Thắng. Trường thiên tiểu thuyết Khói Sóng đăng dang dở trên nhật báo Tự Do
trước 1963.
(còn tiếp)
Duyên Anh