PHẦN
II: THỐNG KHỔ NHẬP MÔN (ĐỀ LAO GIA ĐỊNH)
CHƯƠNG
10
Chuyến xe đời chập chùng hệ lụy đổ
chúng tôi xuống một địa chỉ mới. Địa chỉ mới, với tôi. Với dân tộc tôi thì nó
đã quen thuộc đến cũ mèm. Số 4 đường Phan Đăng Lưu, Quận Bình Thạnh, thành phố
Hồ Chí Minh, là địa chỉ mới ấy. Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, không ai cần
biết số 4 đường Chi Lăng, tỉnh Gia Định. Những kẻ biết nó đều bất hạnh. Vì nó
khoác cái nhãn hiệu hãi hùng: Đề lao Gia Định. Cũ hơn cả Nha Cảnh Sát Đô Thành,
đề lao Gia Định do thực dân Pháp xây dựng. Nó nằm giữa Tòa án Gia Định và Tòa
Tỉnh trưởng Gia Định. Nhà tù luôn luôn sát khít tòa án. Hình phạt và công lý
gắn bó nhau.
Ông Ngô Đình Diệm làm cách mạng nhân vị, ông ta chỉ xoá tên… phế
đế Bảo Đại. Đề lao Gia Định vẫn còn nguyên. Và cách mang nhân vị của ông ta
dùng đề lao Gia Định giam nhốt những người đối lập chế độ nhân vị. Cơ chừng
nhân và vị đã nặng mùi, từ đó. Trong sự nghiệp khai phóng tự do, dân chủ của
Hoa Kỳ, người Mỹ ít quan tâm tới đề lao Gia Định. Bằng tinh hoa kiến trúc Hiệp
Chủng Quốc, họ đã tặng Việt Nam Cộng Hòa hai nhà tù thật hiện đại, thật tư bản.
Để nhốt và khai thác Việt Nam cộng sản. Ở Tô Hiến Thành. Đôi mắt chú Sam đã
nhắm tít khi ngang qua đề lao Gia Định. Do đó, đề lao không được hưởng văn minh
và tự do Hoa Kỳ. Nó bệ rạc cả nội dung lẫn hình thức. Sau ngày 30 tháng 4 năm
1975, cách mạng vô sản tiếp quản đề lao. Rồi, vì Chi Lăng đổi tên Phan Đăng
Lưu, dân chúng tự ý đổi tên đề lao Gia Định thành nhà tù Phan Đăng Lưu, mặc dù,
nhà nước cộng sản ghi rõ trên văn thư là Trại T-20. Vị anh hùng giai cấp Phan
Đăng Lưu đã được phục sinh như một cai ngục vĩ đại của một nhà tù mà cổng treo
tấm bảng nền vàng chữ đỏ: Không có gì quý hơn độc lập tự do! Câu nói bất hủ của
Hồ Chí Minh chỉ sáng nghĩa và sáng giá khi con người vào tù bởi độc lập, tự do.
Và con người phải chui qua cái cổng, chui dưới tấm bảng nền vàng chữ đỏ “Không
có gì quý hơn độc lập tự do”. Dân tộc Việt Nam đã loay hoay với độc lập, tự do
ngót nửa thế kỷ. Chúng ta loay hoay giành độc lập, tự do giữa chúng ta. Rốt
cuộc, mãi mãi, chúng ta ngậm ngùi “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Người
Việt Nam đã nhân danh cái của thiên hạ mà tàn sát nhau. Chưa ai chịu truy nã
phận mình. Chúng ta điên rồ trong trò chơi của ý thức hệ. Và tàn cuộc, chúng ta
hành hạ lẫn nhau. Chưa đủ, chúng ta thù hận nhau, chém giết nhau. Khi ấy, cánh
đồng mầu mỡ quê hương, cỏ dại nhiều hơn lúa.
Bạn biết chợ Bà Chiểu chứ? Đằng sau
Lăng Ông ấy mà! Bên đây đường, cổng đề lao. Bên kia, hông chợ. Biên giới của tự
do và tù đầy ngắn ngủn. Chuyến xe đời chập chùng hệ lụy qua cổng chính. Cổng
khép kín ngay. Xe ngừng lại. Tấm vải bố kéo lên. Chúng tôi, hai người chung một
chiếc còng tay, nhảy xuống đất. Người ta mở cổng và lùa chúng tôi vào sân trong
kín đáo. Buổi chiều hôm ấy không có nắng. Trời âm u. Chúng tôi ngồi trong sân
thứ hai. Chúng tôi đi đứng tự do ở cái sân nhỏ, chung quanh tường cao giăng
giây kẽm gai ngọn đỉnh. Một bạn tù vỗ vai tôi:
- Duyên Anh.
Tôi nhận không ra.
- Thế Viên đây mà.
Thế Viên, trời ơi, tác giả thi phẩm
ướt tình Người yêu tôi khóc, giáo sư văn chương của trường Nguyễn Đình Chiểu,
Mỹ Tho! Năm nào, anh đã giới thiệu tôi với cử tọa buổi diễn thuyết của tôi ở
trường Gioan 23, Định Tường. Sau đó, chúng tôi sang Cồn Phụng, thăm ông Đạo
Dừa. Thế Viên có mái tóc bồng bềnh, đôi mắt thật thi sĩ. Anh chưa từng chống
cộng sản. Một nhà giáo tận tâm, một thi sĩ lãng mạn, suốt đời ca ngợi tình yêu,
tại sao anh vào tù?
- Hệ lụy, anh Duyên Anh à!
Thế Viên đã về Nhà Trang, dạy ở đó
cho đến đại nạn hồng kỳ. Là giáo chức, không một ngày quân trường, anh chỉ bị
học tập tại nhiệm sở của anh vài tuần và tiếp tục nghề nghiệp theo giáo trình,
giáo án của chế độ mới. Tháng 4-1976, anh vô Sàigòn thăm Doãn Quốc Sĩ, ăn cơm
trưa với Sĩ. Đáng lẽ, Thế Viên về sớm là thoát nạn. Định mệnh của anh nằm trong
sự quyến luyến của Doãn Quốc Sĩ. Sĩ đã lưu bạn hiền uống cà phê, kéo dài những
phút hàn huyên. Tác giả Dòng sông định mệnh đâu biết người ta đã bủa lưới vây
bắt anh. Công an ập vào căn nhà trong căn hẽm dài đuờng Thành Thái. Người ta
còng tay Doãn Quốc Sĩ. Người ta đọc lệnh bắt anh. Tác giả Đoàn người hóa khỉ đã
tận mắt nhìn người hóa khỉ. Thế Viên dính lưới một cách oan uổng. Không hề có
lệnh bắt anh. Anh không được Trần Bạch Đằng chiếu cố. Trần Bạch Đằng vẫn chưa
cho anh “một chỗ đất sống dưới ánh mắt trời”. Những tên công an nằm vùng, gã
sinh viên đại học Vạn Hạnh, học trò cũ của Thế Viên, đã đích thân còng tay thầy
của nó và đưa thầy nó vào cuộc phiêu lưu ê chề, nhục nhã. Nó gặp thầy, không
nghiên mình như Carnot, mà bắt thầy nó đứng nghiêm. Và nó bảo thấy nó can tội
thi sĩ phản động!
Tên sinh viên đại học nằm vùng này
không phải là tên cộng sản mầm non học thói Đặng Trần Thường thứ nhất và duy
nhất. Trước nó cả ba chục năm, nhà văn Lan Khai, tác giả Cái hột mận, Ai lên
phố cát, đã bị học trò bỏ vào rọ tre, đeo đá nặng và thả xuống sống chết sặc
sụa. Thế Viên may mắn hơn Lan Khai, Khái Hưng. Anh không bị đếm tung từng chết
trầm. Anh chỉ bị học trò bắt đi… học tập. Người cộng sản sẽ trả lời thế nào về
tình nghĩa, về đạo đức, về phẩm cách qua sự việc bắt nhốt Thế Viên? Bản chất
của công sản là phản bội. Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã thủ tiêu bao nhiều bằng hữu,
bao nhiêu đồng chí sáng giá hơn mình? Chúng ta chưa có bằng chứng cụ thể. Bằng
chứng cụ thể là thi sĩ Thế Viên được học trò cộng sản đền ơn bằng còng, xích và
ngục tù. Những anh cộng sản làm dáng ở Paris, ở Bonn, ở Amsterdam, ở Londres, ở
Washington, có gợn chút ưu tư? Sự mỉa mai không dành cho những anh tập sự phản
bội, tập sự dẫm nát tình nghĩa. Mà, hơi buồn, lại phải dành ưu tiên cho ông nhà
văn Kẻ Tà Giáo. Ông nhà văn Kẻ Tà Giáo là con rể ông Trương Gia Kỳ Sanh, là em
rể tên cộng sản khát máu Trần Bạch Đằng. Cả nước đều rõ. Trần Bạch Đằng tuyên
bố: “Bọn văn nghệ Sàigòn không có đất sống dưới ánh mắt trời”. Cả nước đều rõ.
Ông nhà văn Kẻ Tà Giáo tham dự phiên họp đầu tiên của Hội Văn Nghệ Giải Phóng.
Cả nước đều rõ. Ông nhà văn Kẻ Tà Giáo được Trần Bạch Đằng cài đi nằm vùng ở
Tin Sáng của bọn Ngô Công Đức, đi Bắc về Nam. Cả nước đều rõ. Ông nhà văn Kẻ Tà
Giáo sang Mỹ dẫn lời Bertol Bretch: “Buồn cho thời đại, nói chuyện với cỏ cây
cũng là một tội lỗi”. Nhiều người biết. Nhiều báo đăng. Chúng ta khó chịu cái
thái độ bất lương trí thức của ông nhà văn với. Người nên nói lời của Bertol
Bretch chỉ là Vũ Hoàng Chương, là Thế Viên. Những kẻ nhởn nhơ công tác theo chị
thỉ của Trần Bạch Đằng, một giai đoạn nào đó, trong khi, các thi sĩ “nói chuyện
với cỏ cây” chết rũ trong tù là những kẻ không được tha thứ. Song, người “quốc
gia” vốn rộng lượng. Và những kẻ đã cộng tác với kẻ thù của họ, vẫn ngông nghênh,
vẫn mục hạ vô nhân, tưởng thiên hạ mù và câm hết, ong óng một giọng bịp bợm rẻ
tiền: “Tôi không nuôi một ảo tưởng nào. Và điều mong ước dĩ nhiên của tôi là
tiếp tục dùng ngòi bút để phục vụ người Việt đang định cư ở hải ngoại”. Nuôi ảo
tưởng nào cho một giai đoạn nào? Nước Mỹ không có Trần Bạch Đằng, sẽ có ai? Đó
là ưu tư của người “quốc gia”, nếu họ còn chống cộng và còn tham vọng giải
thoát quê hương. César nói: “Kẻ thù có thể tha thứ, kẻ phản bội phải ném vào
chuồng cọp”. Những kẻ phản bội, những tên ở lại, đã xách súng lùa anh em đi họp
chào mừng cộng sản, đã viết báo cộng sản, đã làm việc với công sản và đã vượt
biên bằng thuyền và bằng máy bay sang Mỹ, sang Pháp. Bằng chứng rành rành, đọc
tên đứa nào, đứa nấy cúi mặt câm nín. Thì vẫn công khai múa mép và múa bút. Thì
vẫn được hoan nghênh như chiến sĩ đấu tranh cho tự do, dân chủ. Và nạn nhân của
chúng nó thì bị vùi dập tơi bời, bị dồn vào cuối đường cô đơn, tuyệt vọng.
Người “quốc gia” còn một hạng, mà dưới mắt và trong ý nghĩ đốn mạt của nó, ai
cũng là cộng sản, nếu đã nằm tù cộng sản và nếu trốn khỏi đất nước muộn màng.
Cái hạng chống cộng bằng sách vở này, chưa một phút nhìn giép râu dẫm trên
đường phố Sàigòn, chưa một giây nếm nổi chua xót của tổ quốc, quá khích đến tội
nghiệp. Có lẽ, sự cường điệu quốc gia chỉ nhằm khoả lấp một co cẳng chạy dài,
vất lại một quá khứ bần tiện.
- Gia đình tôi chưa biết tôi ở tù.
Thế Viên buồn bã nói.
- Họ đã cho viết thư mà. Tôi nói.
- Tôi đã viết hai lần. Không thấy
gia đình trả lời, không có ai gửi quần áo, thuốc men, tiền bạc.
- Anh còn tiền không?
- Còn. Tôi đăng ký mấy chục.
Chúng tôi được lệnh xếp hàng và ngồi
yên lặng. Tôi nhìn sang phía Thế Viên, thi sĩ của tình yêu. Người yêu của anh,
những người yêu của anh còn khóc? Tại sao người ta không bắt chủ nhiệm nhật báo
Xây dựng, nhật báo Tự Do chống cộng khét lẹt? Tại sao người ta không bắt Thanh
Lãng? Câu trả lời có phần lợi cho sự “ân trả oán đền” của cộng sản. Linh muc
Nguyễn Quang Lãm đã lôi Thái Bạch ra khỏi Tổng nha Cảnh Sát quốc gia và bảo đảm
hành vi “nằm vùng “ của nó. Linh mục Thanh Lãng đã xin ông Nguyễn Văn Thiệu thả
Vũ Hạnh và cho nó một chỗ ngồi ở Trung tâm Văn Bút Việt Nam. Ban chấp hành Văn
Bút bình yên. Thế Viên không chống ai thì lận đận. Chắc chắn, anh đã không
thích May cờ giống thi sĩ Tướng Lĩnh, không thích Ngày mai giống thi sĩ Hoàng
Trúc Ly gửi đăng Sàigòn giải phóng vội vàng. Anh cũng không thích giống văn sĩ
Lan Đình, tuyết hận Nguyễn Mạnh Côn chê Từ hôm khởi chiến của mình, bị loại ra
giải văn học tổng thống bằng loạt bài Thâm cung bí sử trên Tin Sáng. Anh ngồi
chồm hổm, thi sĩ của chúng ta. Nông dân Moritz của Giờ thứ hai mươi lăm chỉ vì
trời mưa, chỉ vì vợ đẹp mà lưu lạc mấy chục nhà tù phát xít, đồng minh. Thi sĩ
Thế Viên chỉ vì ly cà phê hàn huyên, chỉ vì Người yêu tôi khóc mà đã lưu lạc hai
nhà tù cách mạng. Tôi đi tù không oan uổng. Sự hèn mọn của công sản ở đó, và từ
đó, loài người có thể phán xét công lý cộng sản.
Chúng tôi bị phân thành ba nhóm. Ba
tên công an chức sắc của đề lao Gia Định xuất hiện. Họ ngó chúng tôi như lái
buôn nô lệ chọn người. Cười nói một lúc, họ thỏa thuận, mỗi tên nhận một nhóm.
Nhóm của tôi vào sau cùng. Chúng tôi, Hồng Dương, Nguyễn Hữu Hiệu và tôi, được
đưa vào khu C-1. Dương Nghiễm Mậu, Đặng Hải Sơn, Thế Viên đến khu khác. Đề lao
Gia Định, thời Pháp đô hộ có mỗi khu A. Khu A cũ kỹ, ẩm thấp, nhưng đầy đủ
“tiện nghi”. Người Pháp lập một thư viện nhỏ, tràn ngập tiểu thuyết trinh thám,
gián điệp. Sang thời cách mạng nhân vị, ông Ngô Đình Diệm trùng tu khu A và cất
thêm khu B mái phẳng xi-măng cốt sắt. Qua cách mạng vô sản thống nhất cả nước,
Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” hơn
thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, xây liền một mạch hai khu C-1, C-2. C-1 và C-2 mỗi
khu có 7 phòng và 12 cachots. Cachot hay biệt giam đối diện phòng giam tập thể.
Biệt giam khu A có phòng nhốt bốn, năm tù nhân, còng tay, xích chân dính chùm
1. Trưởng khu C-1, bí danh Sáu Cầu, người Quảng Ngãi. Ông ta bảo chúng tôi đứng
xếp hàng. Một công an quản giáo dở sổ ghi tên tù nhân mới nhập trại. Sau này,
tôi biết tên hắn là Hùng, dân Củ Chi “thành đồng cách mạng”. Tù nhân tặng hắn
biệt danh Hùng kẽm gai.
Hồng Dương rất thông minh. Anh ta
kéo tôi đứng cuối cùng hàng. Để có thể biết anh em ai vào phòng nào. Nguyễn Hữu
Hiệu vô phòng 3 C-1. Hồng Dương đã xong thủ tục. Tôi là kẻ cuối cùng. Khám xét
hành lý của tôi hồi lâu, gã quản giáo cật vấn lý lịch:
- Họ và tên?
- Vũ Mộng Long.
- Bí danh?
- Không có.
- Nghề gì?
- Viết văn.
- Viết tiểu thuyết ba xu hả?
- Phải
- Bút hiệu?
- Duyên Anh.
- A, Duyên Anh viết Điệu ru nước
mắt.
Sau khi ghi lý lịch của tôi vào sổ
tù, sổ đoạn trường, gã quản giáo hỏi tôi:
- Tại sao anh viết Điệu ru nước mắt?
Tôi đáp:
- Tôi sẽ trả lời với cán bố chấp
pháp.
Có nghĩa rằng, cai ngục, anh không
có quyền thẩm vấn tôi. Gã quản giáo cay cú. Hắn cũng là tên nằm vùng. Tôi hiểu
hắn đã đánh dấu tôi. Đó là điều dại dột, là sự lãng quên lời dặn “Chớ dại chết
ở cái lỗ chân trâu”.
- Anh đã viết Kẻ bị xóa tên trong sổ
bụi đời?
- Phải.
- Bao giờ anh viết Kẻ được xóa tên
trong sổ tù?
Hắn không cho tôi trả lời, vẫy tay
xua tôi ra chỗ Hồng Dương. Một tên cai ngục dẫn tôi đến phòng cuối dãy. Chúng
tôi vào phòng 6 C-1. Ở đây, tôi gặp lại các anh em của tôi: Thanh Thương Hoàng,
Chóe, Thân Trọng Kỳ, Cao Sơn.
Như tất cả các phòng giam tập thể
của C-1 và C-2, 6 C-1 của tôi thấp lè tè, lợp tôn. Nó dài tám thước, rộng bốn
thước. Hồ nước, cầu tiêu ở trong đó luôn. Người ta xây bục xi măng cao khỏi nền
đất hai gang tay làm bục ngủ. Có một miếng trống, thấp gần cửa để chia cơm
nước. Trần phòng là những thanh xà mười tròn, chồng lên nhau thành hình vuông,
đầu người chui không lọt. Chẳng hề có cửa sổ, cửa gió. Chúng tôi tiếp dưỡng khí
qua ô nhỏ vừa bằng cuốn sách bỏ túi trổ giữa cửa sắt. Trưởng phòng và Trật tự
viên dùng dây đo lại toàn phòng để chia chỗ nằm đồng đều cho tù nhân. Khi phòng
đã chật, thêm tù nhân mới là một sự vất vả. Chia chỗ thường dẫn đến gây gỗ, mỗi
tù nhân bị bớt một chút xíu chiều rộng. Cuộc chia chỗ kéo dài nửa tiếng, tôi
được đúng hai gang tay chiều rộng. Bằng hai gang đo này, tôi chỉ có thể nằm
nghiêng hay nằm ngửa, đặt đôi tay lên bụng, không nhúc nhíc. Hành lý của tù
nhân được treo lên những thanh sắt trần sát tường. Tù nhân có, ít nhất, một cái
bị cói và một cái giỏ plastic. Bị đựng kẹo, bánh, đường, bột, mì vụn, thuốc lá,
thuốc cảm sốt và quần áo. Giỏ đựng chén, muỗng, nước mắm, thức ăn mặn. Tất cả
bằng nhựa. Mọi đồ kim khí bị nghiêm cấm. 6 C-1 thêm Hồng Dươngng và tôi, là 52
người. 52 người chiếm một diện tích 32 thước vuông tính cả cầu tiêu, hồ nước,
sàn tắm, chỗ chia cơm nước.
Xong thủ tục nhập phòng và sau bữa
cơm chiều vội vã, tôi có dịp tìm hiểu phòng 6 C-1. Trưởng phòng, thiếu tá cảnh
sát đặc biệt Lâm Văn Thế, ngoài 50 tuổi, điềm đạm, nhẫn nhục. Ông Thế thuộc thế
hệ kháng chiến Nam Bộ. Năm 1954, thay vì xuống Cà Mau ra Bắc tập kết, ông ta đã
ngược lên Sa Huỳnh. Nửa đường, ông ta bỏ về. Rồi ông cộng tác với cảnh sát quốc
gia, tự học thi đậu tú tài, tự học Anh ngữ. Trong tù, ông ta học chữ Nho bằng
phấn viết trên bục xi măng với ông hiệu trưởng trường Tàu. Phấn bị cấm, ông
nhúng ngón tay vào ca nước mà học. Ông Thế bị bắt ngay đêm 30-4-75 tại nhà.
Trật tự viên, Dzũng quan tài, một du đãng trẻ, lừng danh sau vụ cướp súng của
bộ đội, bắn nhau với công an, bị bắn què cẳng và bị đánh gãy răng. Thư ký phòng
là nghị viên hàng tỉnh Nguyễn Tấn Lợi. Đó là ba chức sắc của phòng 6 C-1. Ngoài
ra, phòng 6 tập hợp đủ thành phần: Tư sản mại bản Chợ Lớn, phản động trẻ tuổi,
đầu trộm đuôi cướp, án phạt của chế độ cũ về những thành tích bất hảo. Và nhà
văn, nhà báo, nhà vẽ, nhà đạo diễn! Cái xã hội tù ô hợp nầy chửi thề văng tục
suốt ngày, kèn cựa nhau từng tí. Nó khác xa với sĩ quan trình diện học tập hay
công chức cao cấp trình diện học tập. Trình độ văn hóa và tâm tính hoàn toàn
chênh lệch nên đối nghịch nhau liên miên. Tôi được nhiều độc giả du đãng và
phản động trẻ săn sóc. Và đó là những hệ lụy suốt thời gian tôi trọ ở khách sạn
quốc doanh Đề Lao Gia Định.
Năm chúng tôi, Thanh Thương Hoàng,
Chóe, Hồng Dương, Thân Trong Kỳ và tôi, xúm quanh nhau hút thuốc lá, chuyện
trò.
- Chúng mày là chuyến xe vét đấy.
Bên Sở chỉ còn một Nguyễn Sĩ Tế vẫn nằm cachot. Thanh Thương Hoàng nói.
Tác giả Cánh chim mỏi đưa tay gãi
háng:
- Tao bị ghẻ nặng rồi.
Anh tiếp:
- Đêm sang đây thật hãi hùng. Chúng
tao cứ tưởng nó đem đi thủ tiêu.
Làm sao tôi quên đêm ấy. Bản lề
phòng giam kèn kẹt ghê rợn. Nó nhiễm đầy Đảng tính nên kỹ thuật dọa nạt của nó
tuyệt vời. Một kẻ bất cần đời như Hoàng Anh Tuấn mà nghe đọc tên mình thì rối
loạn, chụp vội mỗi cái điếu cày ra đi, quên cả hành lý. Con người rất con người
là phải biết sợ bỏ rọ ngâm sông. Thiếu nỗi sợ đó, con người vô tri giác. Và phê
bình nỗi sợ đó, phán xét nỗi sợ đó, dành cho các phán quan Nói Phét ở những nơi
bày tỏ sư dũng cảm không bị đánh thuế. Tôi đã thấy các vị phán quan bệnh hoạn
này trên đất nước của Lincoln. Hình như, tất cả đều ngậm miệng, đều khom lưng
trước quyền uy ảo tưởng Hoàng Cơ Minh. Chủ nghĩa tôi mọi thường tỏ ra thiếu hào
sảng với đồng nghiệp oan khiên và đồng bào oan khổ. Một giây Hoàng Anh Tuấn
thôi, sẽ không còn nhớ chụp cái điều cày ra đi. Mà sẽ đứng nghệt mặt, xón đái
ra quần. Vậy thì, chưa kinh quá khốn cùng, nên câm họng, chớ nên luận anh hùng
hay chụp mũ bừa bãi. Không hề kiếm nổi một anh hùng tù ngục trong ngục tù cộng
sản đâu. Chỉ có những kẻ bất trí, những kẻ thiếu chí lớn, ngông nghênh với đám
cai tù chăn trâu cắt cỏ, tự hạ thấp mình cùng lũ công an nói ngọng. Để chết dại
ở lỗ chân trâu. Thảng hoặc, những anh hùng tù ngục được vinh tôn bởi một tù
nhân vô loại “xuống bếp ăn vụng thit, ăn cắp cơm cháy, ăn tránh phần cơm heo”,
tưởng đã chẳng hiển hách, còn bị nhục thêm. Không có gì xấu hổ để bị bắt hay
tình nguyện vẽ tranh Hồ Chí Minh trong tù cả. Biết nhẫn nhục “vẽ chân dung Hồ
Chí Minh cũng như vác củi, cuốc đất”. Sự bảo trọng thân xác kiểu “cũng như” đã
phô bày sự tồn tại lãng nhách trong một pho hồi ký thuật viết lách còn phải học
tập lâu ngày. Lãnh tụ cộng sản không chấp nê những tiểu tiết trong nhà tù.
Không có thằng lãnh tụ cộng sản nào làm anh hùng trong nhà tù cả. La fin
justifie les moyens. Chúng nó hèn hạ để tồn tại, để trở thành "cha già dân
tộc", để trở thành Tổng bí thư và Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng.
Trong Ngục trung nhật ký, Hồ Chí Minh không ngần ngại tự khai:
Ở đời trăm sự đều cay đắng
Cay đắng đâu bằng mất tự do
Mỗi lời mỗi việc không tự chủ
Để chúng dắt đi tựa trâu bò.
“Cha già dân tộc”, chủ tịch Hồ Chí
Minh “vĩ đại sống mãi” đã mất thế tự chủ, đã biến thành trâu bò cho cai ngục
dắt dẫn, sai bảo. Thế giới đã quên cái hèn của Hồ Chí Minh, chỉ còn nhớ cái vĩ
đại của một người đọc Tuyên Ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa, đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Chúng ta đã không khai thác cái khía
cạnh ở tù hèn hạ của lãnh tụ cộng sản. Chúng ta chỉ khai thác cái khía cạnh ở
tù hèn hạ của chúng ta. Không hiểu nổi tâm sự và chí lớn của đại bàng, bằng thù
vặc cá nhân, bằng đố kỵ hẹp hòi, bằng kết tội và phán xét thiếu suy diễn và a
dua, những con chim sẽ mãi mê lép nhép. Rốt cuộc, cái tư tưởng anh hùng tù ngục
nằm gọn trong tiếng ăn: “Ăn vụng, ăn cắp, ăn tranh”. Và nó chỉ có thế. Nó không
thoát nổi thứ địa ngục tồi tệ với mấy trăm trang sách vô tích sự, viết lấy
được, mà kiên nhẫn doc, người ta dễ dãi cách mấy cũng khó tìm nỗi hạt bụi thông
minh, vết chấm tài hoa.
- Nhưng mà hên. Chóe nói.
- Hên sao? Tôi hỏi.
- Vừa sang tới đây, nó lùa chúng tao
vào hội trường. Anh em đủ mặt. Thiếu anh Tế và bọn mày. Đang đêm, Mai Chí Thọ
đến.
Thanh Thương Hoàng ngừng lại, kéo
một hơi thuốc lá. Chậm rãi, Chiểu 2 tiếp:
- Nó thăm hỏi chúng tao. Tình cảm ra
phết. Bố Côn đứng phắt dậy, đại diện anh em xin xỏ. Anh em buồn quá. Bố ấy đói
thuốc đâm ra ngớ ngẩn. Thằng Trịnh Viết Thành nổi đóa. Tao phải nói bố Côn
không đại diện ai cả, bố ấy đại diện cho riêng bố ấy thôi.
- Rồi sao?
- Mai Chí Thọ cười.
- Rồi sao?
- Chúng tao yêu cầu gặp vợ con. Mai
Chí Thọ ô-kê. Thằng nầy thủ đoạn vô song. Nó bảo anh em ghi địa chỉ để nó sai
người đi báo gấp. Và sáng hôm sau, chúng tao gặp vợ con, tiếp tế ê hề … Chúng
mày sẽ được gặp vợ con.
- Sang đây làm việc gì chưa?
- Chưa. Nó quên rồi.
Anh em đủ mặt. Thế là, ngoài nhà
văn, nhà báo quân đội đi trình diện học tập theo diện sĩ quan, đám văn nghệ sĩ
và ký giả bị bắt trong chiến dịch 2-4-76 đã bị lùa hết về đề lao Gia Định, trừ
Nguyễn Sĩ Tế vẫn cô đơn ở cachot Sở Công An.
- Phòng 5C-1 có Doãn Quốc Sĩ, Sao
Biển, Hoàng Vĩnh Lộc, Vương Hữu Đức, Minh Đăng Khánh. Anh em khác trụ trì khu
A, khu B, Chiểu nói. Được gần gũi nhau cũng đỡ buồn.
Khi kẻng tù báo ngủ Chiểu nói riêng
với tôi:
- Ngày về xa lắm đấy, Duyên Anh ạ!
Chuyện buồn nhỏ nhặt liệu mà quên.
Tôi về chỗ của tôi. Không ai được
phép giăng mùng. Dzũng quan tài muốn chia máu đồng đều cho muỗi. Vì 52 tù nhân
nhồi nhét vào diện tích 32 thước vuông nên Trật tự viên Dzũng quan tài đặt lệ:
- Cấm nằm co kiểu xếp thìa.
- Cấm nắm kiểu chân nầy gác lên đầu
gối chân kia.
- Sắp lớp kiểu cá mòi hộp, đầu anh
này là chân anh kia nằm cạnh.
- Cấm tiểu tiện ban đêm.
Chúng tôi tuân lệnh. Anh mập nằm
nghiêng, anh gầy nằm ngửa. Tất cả nằm thẳng không nhúc nhích. Tôi nằm cạnh
Nguyễn Tấn Lợi và Chóe, hai tên cùng to xác. Tuy kẻng tù đã điểm nhưng ngọn đèn
nê-ông không tắt. Nó sẽ sáng đến lúc điểm danh sớm hôm sau. Đêm đầu, lạ nhà tù,
tôi khó nhắm mắt. Nhớ câu thơ của Sông Hồ “Chuyện buồn nhỏ nhặt liệu mà quên”
mà Thanh Thương Hoàng vừa khuyên vừa khuyến cáo, tôi suy nghĩ mãi. Có lẽ, mọi
chuyện buồn nhỏ nhặt hết, kể cả chuyện buồn ở tù. Những ngày còn nằm bên Sở Công
An, tôi đã ao ước chuyển trại. Tôi muốn biết khoảng 20 nhà tù trong thời gian
ba năm. Tôi thiếu cái thung dung của Dương Nghiễm Mậu. Mậu tính mười hai năm.
Tôi chỉ dám tính một cái mốc. Cộng sản đặt mỗi mốc tù ba năm. Nếu tôi độc thân
như Mai Thảo, Như Phong, mọi việc quá dễ dàng. Tôi có người vợ yếu đuối, đau ốm
quanh năm và ba đứa con còn nhỏ dại. Nằm tù, mà cứ lo chuyện xảy ra ngoài đời
thì mau héo hắt lắm. Tôi vào tù, chắc chắn, bằng hữu đã sợ vạ lây mà xa tránh.
Nghĩ ngợi lung tung, rồi ý nghĩ lại trở về nồi cháo thịt chiều 8-4-76. Tôi thèm
gặp vợ con tôi để hỏi nồi cháo thịt có bị cháy đen. Nồi cháo hay thân phận tôi?
Chóe đang ngáy pho pho. Lợi đã co một chân và gác chân kia lên đầu gối chân co.
Mồ hôi của hai tên phì lũ chảy sang chỗ tôi khiến lưng tôi nhơm nhớp. Tôi nhổm
dậy, dựa lưng vào tường, kiếm thuốc lá hút và quan sát năm mươi mốt ổ bánh mì
trong lò. Có mỗi ô cửa gió, dưỡng khí ít, thán khí nhiều, mà con người vẫn
sống, vẫn ăn, vẫn ngủ. Tiếng ngáy, tiếng gải ghẻ soàn soạt, tiếng mớ tạo thành
một hợp âm. Thỉnh thoảng, cái chân gác lên đầu gối của anh này rơi bịch xuống
ngực anh kia, hay chân anh kia đạp trúng đầu anh nọ, thì những tràng chửi thề
văng ra. Nhưng tù nhân cứ ngủ. Mùi vị đề lao mới ghê. Mồ hôi chua, hôi nách, mũ
ghẻ và mùi cầu tiêu, quyện lấy mùi thuốc lá, thuốc lào, nước mắm, mắm ruốc … Cơ
hồ, tôi thoáng thấy mùi đau khổ.
Thả hồn theo khói thuốc, tôi về gõ
cổng nhà tôi. Im lặng. Bên ngoài cũng đã là một ngục tù. Và vợ con tôi đang
thoi thóp trong ngục tù bao la đó…
--------------------------------
1 Đọc Sỏi Đá Ngậm Ngùi, cùng một tác
giả. Nam Á Paris xuất bản 1985.
2 Tên thật của Thanh Thương Hoàng là
Nguyễn Thanh Chiểu.
CHƯƠNG
11
Quá khuya, sương trải thật nhiều.
Những giọt sương, đọng trên lá cây bên sân Tòa Tỉnh Trưởng Gia Định, rơi xuống
mái tôn nhà tù như những giọt buồn ray rứt. Khu C-1 xây dài theo bức tường biên
giới đề lao và tòa tỉnh – đã trở thành Trụ sở Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh.
Nếu tính phòng 7 C-1 là đầu, thì đầu khu C-1 sát khít vỉa hè đường Phan Đăng Lưu.
Tôi nhớ thuở Bùi Thế Cầu làm Tỉnh trưởng Gia Định, hay ghé đây thăm bạn … tổng
đốc Gia Định Thành. Và tôi không quên những cây vú sữa chung quanh sân. Bây
giờ, những giọt sương, đọng trên lá vú sữa, não nề rơi xuống mái tôn nhà tù. Và
tôi ngồi giữa cái hoang vu của kiếp người, nghe điệu sáo thấm vào hồn mình.
Nguyễn Vĩ đã diễn tả.
Sương rơi
… Lạnh lùng
Hiu hắt
Thấm vào
Em ơi
Trong lòng
Hạt sương
Thành một
Vết thương
Rồi hạt
Sương trong
Tan tác
Trong lòng
Tả tơi
Em ơi
Từng giọt
Thánh thót
Từng giọt
Điêu tàn
Trên nấm
Mồ hoang …
Những giọt sương của Nguyễn Vĩ đã
rơi vào năm 1935, năm tôi “mang tiếng khóc ban đầu mà ra” đời. Vẫn là hạt sương
của 40 năm trước, 40 năm sau nó tuyệt tích âm điệu thánh thót. Nó không còn là
vết thương của một người nữa. Nó đã ngậm oan khiên của lịch sử giống nòi. Nó đã
rơi xuống xác hai triệu người Việt Nam chết đói, một triệu rưỡi người Việt Nam
chết Cải Cách Ruộng Đất, bao nhiêu triệu người Việt Nam chết thủ tiêu – bom đạn
chiến tranh. Hôm nay, nó rơi xuống roi gạo mác xít, rơi xuống thuyền gỗ lênh
đênh vượt biển, rơi xuống các trại tị nạn ô nhục, rơi xuống nhà tù, trại tập
trung. Giọt sương theo nỗi đổi đời, đã thành giọt nước mắt. “Nếu cột đèn biết
đi, nó sẽ đi tìm tự do”. Thuyền nhân nào đó đã trả lời phóng viên một đài phát
thanh ngoại quốc thế. Sự ví von thật hay. Cột đèn không biết đi. Con người biết
đi. Nhưng con người đã dừng lại sau chuyến đi dài. Người Việt Nam không thích
nhớ những gì đáng nhớ, phải nhớ; không thích quên những gì cần quên, nên quên.
Cái truyền thống hẩm hiu nhất của dân tộc ta là nhớ thù vặt và ham trả thù vặt.
Triều đại này lật đổ triều đại kia, tiêu hủy mọi công trình xây dựng tốt đẹp,
kể luôn công trình kiến trúc. Cao Miên còn hãnh diện có Đế Thiện Đế Thích,
chúng ta còn gì? Phải cám ơn ông thực dân Pháp một tí. Nhờ ông chiếm đất nước
tôi nên chúng tôi còn chút xíu lăng tẩm, thành quách triều đại Nguyễn Phúc Ánh.
Ông sang muộn, những kẻ phục Lê lật đổ Nguyễn sẽ san bằng những lăng tẩm, bia
mộ, đền đài ở Huế! Nhưng mà những kẻ nhớ thù vặt, trả thù vặt tận tình nhất vẫn
là cộng sản Việt Nam. Mắt mờ thù hận, óc ủng thù hận, cộng sản Việt Nam đã dẫm
nát báu vật và giam nhốt tài năng của dân tộc. Còn chúng ta, chúng ta bảo vệ
báu vật và tài năng ra sao? Chúng ta hất hủi, hờ hững, kèn cựa. Và với triết lý
thoát là tới, chúng ta đã quên những oan khiên mà giọt sương vẫn ngậm, vẫn rơi
đều đặn xuống thân phận Việt Nam. Dân tộc đang kiên nhẫn bước trên sầu đạo để
chiến đấu, để tìm ý nghĩa rạng ngời cho lịch sử. Quê hương đang cựa quậy. Chúng
ta dừng lại, dầu chúng ta khác hẳn cột đèn. À, chúng ta cũng đi chứ! Chúng ta
đi giật lùi. Đã nhiều dâu biển trong kẻ thù của chúng ta. Chưa có dấu hiệu sắp
dâu biển trong cung cách chiến đấu để chiến thắng kẻ thù của chúng ta. Mọi lãnh
vực, chúng ta đứng. Rồi nằm. Và nhai lại. Khi đó, những giọt sương đã “đổi đời”
và không ngừng rơi xuống những xót xa, nghẹn ngào bắt thức tỉnh, suy tư.
Sự suy tư của tôi gần gũi nhất. Là
cái “nội các” của ông Đinh Xuân Cầu. Trực giác của tôi cho tôi biết mục sư
Trương Phiên đã bịp chúng tôi. Tôi chợt nẩy sự ngờ vực từ hôm Trương Phiên dọa
tôi rằng công an mật đã bao vây nhà tôi. Hắn muốn cắt đứt đường về của tôi. Rồi
hắn bảo tôi cho tổ chức mượn mấy lạng vàng. Tôi viết thư về nhà. Con gái tôi
trả lời thay vợ tôi. Tôi đọc thư, lòng dạ tan nát. Con tôi viết: “Mẹ bị mù rồi
hay sao ấy, bố ạ! Mẹ chẳng còn nhìn rõ cái gì”. Có lần, vợ tôi đã không đọc rõ
chữ và tôi phải cầu cứu Bùi Duy Tâm. Tôi tin ngay. “Nhà cạn tiền rồi, bố về lo
cho các con”. Tôi chưa về, vì nghĩ vợ con tôi chưa biết công an mật lởn vởn trước
nhà tôi. Trương Phiên chở em vợ hắn đến An Đông lấy vàng. Hắn đã thất vọng. Hắn
vẫn quả quyết ông tướng Ngô Quang Trưởng còn ở trong “bưng”. Đặng Xuân Côn đề
nghị: “Chỉ cần đưa ông Trưởng về Sàigòn, dẫn ông tướng này gặp vài người là
thừa vàng chiến đấu”. Trương Phiên nồng nhiệt hứa hẹn thực hiện kế hoạch Đặng
Xuân Côn. Những chuyến “ra đi” của “nội các” cứ bị hoãn lại. Lần thì Nguyễn Cao
Kỳ bay về bưng bắt Bùi Thế Lân, gây áp lực với Hội Đồng Bảo Quốc. Lần thì địch
“báo động đỏ”, giăng lưới các cửa biển. Vân vân. Trương Phiên có tài nói và
diễn xuất. Mục sư mà. Hắn phô bày chí lớn của hắn bằng bí danh Trương Mộng
Hoàng. Họ Trương ôm giấc mộng trở thành hoàng đế! Hắn nói, ngay cả tôi nghe, cứ
tưởng hắn dốc tâm can vì nước. Có nhiều lúc, kẻ khôn ngoan bỗng ngu xuẩn một
cách tội nghiệp. May cho tôi, khi qua nhà số chẵn đường Tăng Bạt Hổ, nhân xem
ti vi, tôi đã ngỡ ngàng. Báo chí Mỹ thân Cộng đã chụp đầy mặt tướng lãnh lưu
vong tặng Việt cộng. Ông thì đang rót rượu, ông thì đang lau bàn… Việt cộng
thuyết minh thêm. Mỗi chân dung tướng lãnh hiện rõ trên màn ảnh nhỏ. Có ông Kỳ,
ông Trưởng … Tôi quyết định trở về sau vài tuần lưu lạc ở Hòa Hưng, Bảy Hiền.
Thoạt tiên, tôi đến nhà bà Nguyễn Đình Vượng, địa chỉ tạp chí Văn. Tôi nhờ bà
liên lạc với vợ tôi. Vợ tôi lên đón tôi chập tối. Sáng tỉnh mơ hôm sau, tôi đến
Phú Nhuận. Tôi lại về nhà. Rồi tôi ở nhà luôn. Rồi tôi đi về lung tung. Chẳng
thấy bóng dáng công an nào. Ông Đinh Xuân Cầu và Sao giò bị bắt trong tháng
1-1976. Tôi bình yên. Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Thiện Ngọ … bình yên. Chúng tôi
vẫn gặp nhau ở một tiệm thợ may trong chung cư Nguyễn Thiện Thuật. Trương Phiên
tuyệt tích.
Tôi không đánh giá Trương Phiên như
một công an cộng sản lùa chúng tôi vào lưới. Thấp hơn, tôi đánh giá hắn như một
tên lợi dụng tinh thần chống cộng của mọi người. Hắn khôn khéo đạo diễn, thảy
cái bè chuối xuống nước đúng lúc. Sau 30-4-75, rất nhiều tên làm tiền và làm
tình bằng những thủ thuật phục quốc và rất nhiều người mất vàng, mất trinh, rồi
vào tù. Hoàng hôn của miền Nam nó thảm thiết vậy đó. Tôi sẽ viết ở những trang
sắp tới. Ông Đinh Xuân Cầu nghĩ rằng Trương Phiên là gián điệp Mỹ. Năm 19 tuổi,
lòng chứa chan mộng ước, tôi theo Duy Dân lên rừng Ban Mê Thuột làm cách mạng.
Trở lại Sàigòn thất học, bơ vơ, tôi thù hận chính trị, cách mạng. Và tôi đã
diễn tả sự khinh miệt lãnh tụ trong tiểu thuyết Ảo vọng tuổi trẻ. Năm 1975,
lòng chứa chan uất ức, tôi đi chống cộng sản. Và tôi cũng trở về, chán nản, bơ
vơ. Rốt cuộc thì tôi vào tù, mất toi một lạng vàng cho sự nghiệp chống cộng đến
chiều. Ít ra, tôi đã trung thành với khẩu hiệu Chống cộng đến chiều đầy hệ lụy
mà tôi đã viết từ thuở tôi cầm bút chống cộng. Nhưng sự bẽ bàng chống cộng tàn
mùa của tôi, một mình tôi chịu. Và tiếp tục nói dối cả với vợ con tôi, với Đặng
Xuân Côn: “Tôi đã vào chiến khu, đã gặp Ngô Quang Trưởng, đã gặp Mỹ với khí
giới tối tân!” Ở tù, tôi quen bao nhiêu con người chống công tâm huyết, trẻ có,
già có. Họ cũng bị bịp như tôi. Bạn đã hiểu tại sao tôi khinh bỉ những tên lái
buôn chống cộng, những công ty đấu thầu chống cộng. Tôi chưa cháy niềm tin
chống cộng. Tôi vẫn chống cộng. Vì dân tộc, chắc chắn, là viễn vông. Vì những
con người đã dấu diếm tôi, đã săn sóc tôi, đã kỳ vọng nơi tôi, ở các căn nhà
hẽm phố Trần Quý Cáp, phố An Đông, phố Tăng Bạt Hổ, phố Tô Hiến Thành, Bảy
Hiền, Xóm Mới. Chính xác, tôi chống cộng với tuổi trẻ, với các bạn Pháp và Việt
của tôi. Tôi không chống cộng với lãnh tụ ghẻ lở, với cây mục vô tích sự, với
lái buôn, cai thầu. Và tôi tin vào sự quật khởi của dân tộc tôi, không tin vào
các thế lực ngoại bang.
Kẻng tù báo thức làm sự suy tư của
tôi ngừng lại. Tù nhân bắt đầu ồn ào. Hãy tưởng tượng đống sơ mít, nhặng bu
đầy, bị đụng khẽ. Tù nhân đã vo ve như thế từ lúc kẻng báo thức đến lúc kẻng
báo ngủ. Sự tranh chỗ tiểu tiện, đại tiện, đánh răng, rửa mặt náo nhiệt vô
cùng. Không có nhường nhịn ở nhà tù. Luật đời và luật tù giống hệt nhau. Thằng
nào manh, thằng ấy chủ động. Những thằng mạnh, cộng sản biết dùng người lắm, là
những thằng cảnh sát đặc biệt, an ninh quân đội, du đãng được sử dụng vào các chức
Trưởng phòng và Trật tự viên. Những thằng này, bất cứ hoàn cảnh nào, đều biết
cách đàn áp anh em để thủ lợi. Dưới chế độ cộng sản, các vua tù bị thoái vị.
Trưởng phòng mất quyền bóc lột, hà hiếp tù nhân. Ở đề lao Gia Định, cộng sản
ban phát cho Trưởng phòng ân huệ ra ngoài khiêng đồ tiếp tế của thân nhân tù
nhân, mỗi tuần lễ. Ra khiêng đồ sẽ được gặp vợ con trong năm phút. Để bảo vệ
quyền lợi khốn kiếp này, Trưởng phòng đã ghi những câu nói mỉa mai của tù nhân,
báo cáo Trưởng khu hay Cán bộ giáo dục. Tùy theo mức “phản động” nặng hay nhẹ,
tù nhân sẽ bị viết tự kiểm, sẽ bị cấm viết thư, sẽ bị cấm nhận quà tiếp tế, sẽ
bị nằm cachot. Không phải Trưởng phòng nào cũng đê tiện. Cộng sản chọn người
xứng đáng cho công việc xứng đáng. Khi nó đã chọn, đừng hòng từ chối. Từ chối
là chồng đối chế độ. Chống đối chế đó ở nhà tù là mút chỉ ăn cơm hẩm. Đừng hòng
tình nguyện. Tình nguyện là có ý đồ. Có ý đồ là bị điều tra. Ở bất cứ nhà tù
nào, dưới bất cứ một chế độ nào, trên bất cứ một quốc gia nào, bạn đừng đòi hỏi
tự do. Bạn chỉ được đòi ân huệ và chớ dại dột yêu sách. Yêu sách, bạn sẽ được
nâng quan điểm lên bất mãn. Mỗi nhà tù một quy chế. Cái hợp lý ở đề lao Gia
Định sẽ là cái vô lý ở khám Chí Hòa. Chính sách nhà tù cộng sản thả nổi. Ở đề
lao Gia Định, bạn có quyền tuyệt thực. Sang khám Chí Hòa, bạn tuyệt thực thì
bụng bạn đói mà thân bạn no đòn. Những kẻ chỉ loanh quanh các trại cải tạo
không nên lạm bàn về nhà tù. Trại cải tạo là động. Nhà tù là tỉnh. Trại cải tạo
là ánh sáng. Nhà tù là bóng tối. Ở trại cải tạo, cộng sản gọi bạn là trại viên.
Nhà tù, cộng sản gọi bạn là can phạm. Ở trại cải tạo, bạn sống chung với các
chiến hữu. Ở nhà tù, bán sống chung ô hợp với đủ mọi thành phần xã hội. Ân huệ
của Trưởng phòng là ra ngoài khiêng đồ, gặp vợ con, hít no dưỡng khí, tắm nắng
thỏa thuê, tuy còng lưng, mỏi tay. Ân huệ của Trật tự viện là đi đổ rác, phơi
quần áo, tha hồ liếc nhìn các phòng, các cachots và gặp gỡ "anh em” ở đống
rác, ở chỗ phơi quần áo. Ấy, ân huệ nhỏ mọn thế thôi, mà cộng sản dư khả năng
tạo ra mọi ngờ vực, mọi phôi pha tình người. Trưởng phòng Lâm Văn Thế không
thuộc loại đê tiện. Ít nhất, ông ta cũng là sĩ quan. Dzũng quan tài không tệ,
nhưng đám mafia 6 C-1 cậy thế nó để tác yêu, tác quái ở hồ nước.
Không một tù nhân nào được tắm bằng
nước chứa trong hồ. Nước này chỉ dùng xối cầu tiêu, rửa chén, rửa mặt, đánh
răng và rửa … đít. Tù nhân bị cấm sử dụng giấy vệ sinh. Mafia 6C-1 bất chấp
luật lệ. Nửa đêm, chúng thay phiên nhau tắm để ngủ ngon. Mỗi ngày, vòi nước lùa
qua ô cửa gió 2 lần. Nước đầy hồ, tù nhân mới được tắm. Tù nhân trần truồng
đứng xếp hàng. Mafia cầm vòi nước. Tôi đếm thử những cái tích tắc, tính ra mỗi
tù nhân hưởng 10 giây đồng hồ tắm gội. Bị mafia ăn cắp một giây. 520 giây tắm
cho 52 tù nhân đa số bị ghẻ lở! Không thể sát xà phòng. Ngôn ngữ tục tĩu nhất
đã phóng ra ở sân tắm vào giờ nước vào. Những ngày Sáu Cầu làm Trưởng khu,
không có điểm danh. Trưởng phòng đếm tù, rồi báo cáo cán bộ là xong. Những ngày
này, tù nhận được nhận cà phê và trà. Mỗi ông tù có một cái vợt vải nhỏ. Màn
tắm táp sáng nay đã xong. Tù nhân ngồi chờ nước sôi và nghe nhạc cách mạng oang
oang từ cái ô-pạc-lơ gắn trên nóc phòng 7C-1. Tôi thích nhất bài Tình em biển
nhớ của Nguyễn Đức Toàn. Có lẽ, tôi thích nhất hai câu đầu. Ở cái lúc chui rúc
trong chuồng gà kỹ nghệ, sự nghiệp tiêu tan, thân thể lênh đênh, vợ đau con dại
mà thưởng thức giọng hát Đỗ Dậu nỉ non: Chưa có hôm nào đẹp như hôm nay, đất
nước thanh bình, lòng ta mê say… thì dẫu là Khổng Tử, vẫn cần thiết chửi thầm.
Thân phận tù cộng sản nó cay đắng khôn cùng. Nó không bị xét xử. Nó không có
án. Nó không biết ngày về. Ba cái không chưa đủ làm điên, còn sáng, trưa, tôi
nghe hát chưa có hôm nào đẹp như hôm nay!
Nhưng mà nước sôi đã tới. Cai ngục
mở cửa. Trật tự viên xách xô nhựa ra. Tù nhân tín cẩn gánh nước từ bếp khu A
sang, múc đầy xô. Trật tự viên xách vào. Chỗ chia cơm nước lại sinh động. 52
cái ca nhựa bầy sẵn. Tù nhân đứng hết dậy. 104 con mắt nhìn Trật tự viên chia
nước sôi. Ăn thua từng giọt. Cãi nhau vì mì đã bỏ sẵn vô ca mà không ưu tiên
chia nước trước. Phân bì ca nhỏ sao nước bằng mức ca lớn. Vân vân … Nước chia
xong, tù nhân đem về chỗ của mình. Anh không có cà phê thì đổi nửa phần nước
cho anh có cà phê lấy chút đường và... cái bã. Những anh ăn chung thì vừa ngâm
mì vụn vừa pha cà phê. Mì ăn dứt, ta nhâm nhi cà phê, hút thuốc rê, thuốc lá,
thuốc lào. Các anh máu mì, máu cà phê, thì pha bột Bích Chi, bột đậu xanh… Cách
mạng kể ra tốt chán. Tù nhân điểm tâm bằng sự… nhịn ăn uống của vợ con mình!
Chấm dứt điểm tâm là màn rửa ca, rửa muỗng. Bụng đã có tí sinh tố, tù nhân thay
phiên nhau đi cầu. Và đây mới là hoạt cảnh. Anh tù lên giàn bắn. Anh ta chơi
ra-phan. Những anh tù khác vừa nghe đạn nổ, vừa ngửi thuốc súng. Hàng tràng
chửi thề tới tấp. “Xối nước đi”! Ngôn ngữ cách mạng phong phú. “Xối khẩn
trương. Xối tối đa. Xối thoải mái. Xối nhanh. Xối mạnh. Xối vững chắc”! Anh tù
cứ thản nhiên … rặn. Hòa bình rồi. Thống nhất tổ quốc rồi. Đi đâu mà vội. “Khẩn
trương cho người khác tiếp quản cầu tiêu chứ”? 52 tù nhân xếp hàng đi cầu. Thì
đâu vào đó cả. Cách mạng không sai lầm. Đảng ta luôn luôn sáng suốt. “Khắc phục
ỉa đi!” “Khắc phục cái củ cà-rốt, đi cầu chứ đi sang Liên Xô sao?” “Mẹ anh,
nhân dân làm chủ cái cầu hay anh làm chủ? Đầu óc tư hữu lạc hậu!”
Cuối cùng, mọi việc đều tốt. Tù nhân
chơi cờ tướng, chơi đô-mi-nô. Khích bác nhau một chặp, chơi văng bậy và suýt
chơi chân tay. Ông Thế say sưa học chữ Tàu. Ông hiểu trưởng Tàu say sưa học
tiếng Việt. Các ông Tàu Chợ Lớn bị xử ức. Cộng sản nó bảo: “Anh ở nước tôi mấy
đời rồi, anh không hoc nổi tiếng nước tôi, học viết chữ nước tôi, chúng tôi
không làm việc với anh qua thông ngôn. Học đi, chừng biết viết Tự khai hãy nghĩ
chuyện về sum họp gia đình.” Các ông Tàu thộn mặt. Và tự giác mình đã láo lếu
mấy đời. Tù nhân chia từng nhóm. Nhóm ngồi hút thuốc tâm sự. Nhóm ngồi gãi ghẻ.
Nhóm ngồi nặn trứng cá, nhổ tóc sâu. Chuyện tù sao mà nhiều thế! Nói hoài nói
hủy. Thuốc rê đốt um khói. Thuốc lào rít liên hồi. Ở 6C-1, tôi yêu nhất hai chú
bé phản động mà tôi quên tên. Hai chú bé dưới 18 tuổi, không tranh giành cơm
nước, không chửi thề nói bậy. Hai chú bé nằm dưới sàn chia cơm và bắt được hai
con dế chui vô phòng. Thế là hai chú bé đá dế, cười nói hồn nhiên. Tôi biết
chắc hai chú bé không hề nuôi một tham vọng nào khi đi làm phản động. Không
thích cộng sản, các chủ bé chống cộng sản. Đi chiến đấu hồn nhiên, vào tù hồn
nhiên, đau khổ hồn nhiên và chiến thắng vẫn hồn nhiên. Đất nước cần những tâm
hồn chiến đấu không thèm toan tính ấy. Hai chú bé con nhà nghèo, không một ai
tiếp tế. Chỉ sống bằng cơm tù, ai cho gì cũng từ chối. Cuộc chiến đấu của tôi
còn vì những chú bé như hai chú bé này. Tôi bị lừa gạt niềm tin hai lần. Lần
thứ nhất, tôi 20 tuổi. Lần thứ hai, tôi 40 tuổi. Tôi không muốn những chú bé
Việt Nam bị lừa gạt niềm tin chiến đấu. 20 tuổi, tôi viết:
Tổ quốc mình đó em
Anh đi làm lịch sử
Với bọn cò mồi hèn
Thấy thiên đường đổ vỡ
Anh còn gì đâu em
Anh còn gì cho em
Từ niềm tin đầu đời bị lừa gạt, tôi
chở sự phẫn nộ vào cuộc sống. Và rồi tôi bơ vơ, lạc lõng. Tôi trở thành kẻ quá
khích của điều thiện, một thứ cuồng sỉ khó ai dung dưỡng nối. Kẻ quá khích của
điều thiện chỉ đem về cho nó những thù ghét cay đắng, những ngộ nhận nghiệt
ngã, những săn đuổi không thương xót. Không phải bất cứ ai cũng có thể giải tỏa
nỗi ẩn ức của mình bằng chữ nghĩa. Tôi nghĩ tới những tác động phá phách của
tuổi trẻ mất niềm tin và cả những bất động nữa. Cả hai điều thiệt thòi cho quê
hương. Bọn buôn bán tuổi trẻ đã không hề nghĩ đến sự thiệt thòi ấy. Chúng nó
chỉ biết làm lợi cho chúng nó. Và tôi lên tiếng. Tiếng nói của tôi chìm vào hư
vô bởi những khỏa lấp của quyền lực và tài lực. Thêm nữa là sự rút đầu xuống
cát của đà điểu văn nghệ. Chẳng ai ngu si đi tìm những oan khiên cho mình. Ai
cũng biết khôn ngoan sống chiều lòng người, vừa lòng người, đẹp lòng người,
khen luôn những cái không đáng khen của người, suốt đời ngậm miệng không chê
người… Cái triết lý sống bần tiện này không nên có ở những người cầm bút trong
thời đại hôm nay. Anh đừng nói anh chuyên viết và bình luận văn học, không dính
dáng chính trị. Chúng ta đang sống ở kỷ nguyên mà con người khó thoát khỏi quỹ
đạo chính trị. Anh không làm chính trị, anh cũng không có thái độ chính trị nữa
sao? Vậy sự từ bỏ Việt Nam sang Mỹ của anh là thái độ gì? Kỷ nguyên nghệ thuật
vị nghệ thuật đã chấm dứt và nó rất lạc hậu đối với hiện cảnh và thảm cảnh Việt
Nam. Người cộng sản chỉ mong anh không có thái độ chính trị, chỉ mong anh bàn
về ăn mặc, uống trà, để khen anh. Họ đã khen anh. Và rồi họ sẽ nuốt anh. Như họ
đã nuốt anh em của anh, dẫu có người chưa hề có thái độ chính trị. Thế Viên
chẳng hạn. Vũ Hoàng Chương chẳng hạn. Anh khôn lõi. Tôi dại dột. Nếu các hào
kiệt Nhân văn giai phẩm đã khôn lõi, chắc chắn, đã không có dấy động tuyệt vời
của chữ nghĩa. Anh khôn lõi, anh được tôn sùng. Tôi dại dột, tôi bị ghét bỏ.
Nhưng tôi hãnh diện về sự dại dột của tôi. Và tôi ngạo nghễ khinh thường thơ
văn không chính kiến của anh hôm nay là:
Thứ thơ văn nghìn năm không dấy động
Thơ văn cột rỗng
Lớp son mầu mè tỉa tót công phu
Thứ thơ văn tửu hậu trà dư
Thơ văn chết khi cuộc đời căng nhựa
sống
Thơ văn ngồi khi Việt Nam khốn quẫn
Thơ văn nằm khi bạo lực diễn hành
Thơ văn tô móng tay khi dân tộc đói
nhăn răng
Thơ văn nhẫy nhụa môi son vênh vang
trưng diện
Tôi viết văn, làm thơ chẳng hề đeo
tham vọng đi vào văn học sử hay bất tử. Với tôi, đó là chuyện hề kệch cỡm.
Trước năm 1975, rất nhiều lần, tôi thành thật nói tôi viết văn để mưu sinh.
Không biết làm nghề gì cả, tôi làm nghề viết văn. Và tôi đã sống bằng nghề viết
văn, hoàn toàn sống bằng nghề viết văn. Không có thiên chức hay sứ mạng gì
trong văn chương của tôi cả. Chưa từng ngửa tay nhận tiền của cơ quan ngoại
quốc nào để vừa viết văn vừa ăn vừa lo nộp sách. Cũng chưa từng ngửa tay nhận
tiền của Mạnh Thường Quân nào. Tôi bán chữ nghĩa của tôi thẳng cho nhà xuất
bản. Tôi là công nhân chữ nghĩa, nếu anh muốn gọi thế. Tôi bắt đầu có tham vọng
văn chương từ hôm Huỳnh Bá Thành, bí danh Ba Trung, tác giả Vụ án hồ con rùa,
đại diện đảng Cộng sản Việt Nam, nói với tôi một câu đầy miệt thị: “Thế giới
đâu đã đọc sách của các anh.” Rồi trải qua ba nhà tù, hai trại tập trung ròng
rã 6 năm. Rồi nhìn lại một Sàigòn bán máu đỏ mua gạo đen, nhìn lại một sản phụ
không sữa nuôi con bị vắt vú ba lần mới được mua sữa bò giá chính thức, nhìn
lại cảnh chó và người mưu sinh chung ở đống rác, nhìn lại vô số … Rồi tôi vượt
biển và nhìn đồng bào tôi bị ngược đãi tại quán trọ trước cổng thiên đường. Tôi
càng thấy tôi nên có tham vọng văn chương. Tham vọng văn chương của tôi sẽ
không bao giờ đi vào văn học sử. Tôi nghĩ chúng ta cần có tổ quốc đã. Thiếu tổ
quốc, hình như, không có lịch sử và mọi chuyện đều vá víu tạm bợ. Vậy thì tham
vọng văn chương của tôi, bây giờ, là ngày mai của tổ quốc tôi. Muốn có ngày mai
của tổ quốc, tôi phải chiến đấu. Văn chương của tôi là văn chương chiến đấu, là
tư tưởng dấy động, là chữ nghĩa lên đường; không thể là văn chương chết, là tư
tưởng ngồi, là chữ nghĩa nằm. Văn chương ấy phải làm thế giới xúc động mà cảm
thông nỗi khổ của dân tộc tôi. Tôi đã sung sướng thực hiện được một bước trong
ngàn bước tham vọng văn chương của tôi, dẫu tôi cô đơn, âm thầm làm một mình,
dẫu tôi bị móng vuốt của đố kỵ hèn mọn cào cấu chảy máu, dẫu tôi bị bạo lực
cộng sản bức tử. Nói tóm lại, tôi thích được gọi là người viết văn có chính
kiến và chấp nhận mọi thiệt thòi, vật chất và tinh thần, cho kẻ ham bày tỏ
chính kiến rõ rệt, dứt khoát. Tôi đọc ở Remarque câu này: “Khi thế giới còn
những bọn hung tàn vô nhận đạo mà mình biết mình đủ khả năng chống đối, lại
không dám chống đối, là mang tội ác.” Tội ác trên cả tội lỗi, ghê gớm lắm. Tôi
sợ mang tội ác nên tôi tiếp tục chống đối, sau thêm một phen bị lừa gạt niềm
tin ở tuổi 40. Tôi đã chiến đấu ngoài đời và trong văn chương. Ở hoàn cảnh tôi
năm 1975, anh không dám phản động đâu. Chưa ai lãng mạn hơn tôi. Với tôi, tất
cả đều trực diện chiến đấu, không phục kích, chiến đấu công khai. Cuộc chiến
đấu của tôi rất trẻ nên tôi cần dẹp bỏ bọn lái buôn lý tưởng của tuổi trẻ.
Tôi ngồi suy nghĩ vẩn vơ một chặp
thì đến giờ phát thuốc. Mọi sinh hoạt ngừng hẳn. Tù nhân chen nhau ở chỗ chia
cơm nước. Vì cửa phòng mở rộng, ai cũng thèm đứng gần cửa để hít dưỡng khí. Y tá
tù bê một khay thuốc.
- Ai bệnh cảm cúm?
Tù nhân bị cảm cúm dơ tay. Mỗi người
cầm sẵn một ca nước. Y tá múc thuốc bột bằng muỗng cà phê từ cái hủ thủy tinh.
Thuốc cảm giống màu xi măng nên tù nhân đặt tên nó là thuốc xi măng. Tù nhân
uống thuốc trước mặt y tá.
- Ai cảm sốt?
Tù nhân cảm sốt dơ tay. Thuốc cảm
sốt y hệt thuốc cảm cúm. Nghĩa là thuốc xi măng ở cùng cái hủ.
- Ai đau bao tử?
Đau bao tử được uống xi rô màu hồng.
- Ai đau tim?
Bệnh tim tương tự bệnh bao tử, nên
trị bằng … xi-rô màu hồng luôn.
- Ai tiêu chảy? Ai ghẻ mủ? Ai kiết
lỵ?
Ba bệnh nầy chung một triệu chứng.
Và bệnh nhân uống Xuyên Tâm Liên, món thuốc trị bá bệnh, trị cả ung thư nữa. Tù
nhân đau bao tử và đau tim… giả vờ đông hơn cả tù nhân đau thật sự. Vì xi-rô có
đường. Tù nhân cần chất đường, thêm chất đường cho đỡ hại cơ thể! Cách mạng nắm
vững vấn đề. Do đó, đau tim và đau bao tử chỉ được phát một muỗng cà phê xi-rô
hồng. Các thứ bệnh “điều trị” xong, y tá phát thuốc tư. Thuốc tư là thuốc của
thân nhân gởi vào nhà tù cho tù nhân. Thuốc phải đăng ký ở Phòng Y Tế của đề
lao. Muốn xử dụng hôm nay, tù nhân phải thông báo y tá từ hôm qua. Y tá ghi vào
sổ. Tù nhân đăng ký thuốc tư có số riêng. Trừ thuốc bổ, các thứ thuốc bệnh phải
uống trước mặt y tá. Khi tù nhân bị bệnh đột xuất, thí dụ trúng gió, ngộp thở,
bất kể ngày đêm, trưởng phòng ghé miệng sát cửa gió, nói lớn: “Báo cáo cán bộ,
phòng … có người bệnh nặng.” Bác sĩ nhà tù sẽ đến cấp cứu. Bệnh nguy kịch, tù
nhận được chở qua bệnh viện Nguyễn Văn Học.
Màn phát thuốc chấm dứt. Cửa phòng
khép lại, khóa kỹ. Y tá sang 7C-1. Thời khoá biểu đề lao được áp dụng trúng
phóc. Đến giờ cơm trưa. Cơm trưa đề lao ăn lúc mười giờ. Cửa phòng mở. Trật tự
viên và hai “trực sinh” ra khiêng cơm và thức ăn vào. Tù nhân thay phiên nhau,
hàng ngày, hai người chịu trách nhiệm quét phòng, lau sàn phòng, bục ngủ, chà
rửa sàn nước, cầu tiêu, khiêng cơm. Cơm nước chia xong, phải lau sàn và rửa
thùng đựng cơm, thùng đựng thức ăn sạch sẽ. Một ngày làm công việc này gọi là
trực nhật, và người làm gọi là trực sinh! Theo luật nhà tù xã hội chủ nghĩa,
phòng giam tập thể chia thành nhiều tổ, mỗi tổ 10 tù nhân lãnh đạo bởi Tổ
trưởng và Tổ phó. Vậy một phòng giam có Trưởng phòng (chủ tịch nhà nước), Phó
phòng (phó chủ tịch nhà nước), Trật tự viên (Tổng Bí thư), Thư ký (ban bí thư
trung ương đảng), các Tổ trưởng, Tổ phó (uỷ viên trung ương đảng). Mỗi tối thứ
sáu họp phòng, kiểm điểm … thành tích tù. Biên bản ghi một câu đúng chỉ tiêu
đặt ra: “Các can phạm triệt để tin tưởng vào sự khoan hồng nhân đạo của Đảng và
Nhà Nước, quyết tâm học tập cải tạo tốt để sớm được về sum họp gia đình. Trước
khi bế mạc, các can phẩm hồ hởi, phấn khởi liên hoan văn nghệ bằng hợp ca bản
Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng. Biên bản này được đọc lớn cho cả phòng
nghe. Mọi người nhất trí.” Trực sinh do Tổ trưởng chỉ định từng cấp thuộc tổ
mình. Trưởng phòng, trật tự viên, thư ký được miễn trực nhật.
104 cái ca nhựa được bày thứ tự
thẳng hàng. Trật tự viên phân phối cơm và thức ăn. Cơm gạo hẩm, đầy cả cỏ ngọn.
Thức ăn bữa thì hai miếng đậu kho, bữa thì su su kho, bữa thì cá ngừ hay cá
đuối kho, bữa thì canh rau muống già, canh bí rợ. Kho và nấu canh bằng muối.
Đậu kho tuyệt tích từ tháng 8-1976. Muốn ăn miếng thịt cà ri hay thịt khô, phải
đợi mấy ngày lễ lớn. Thường xuyên là cá biển ươn kho. Ươn phát thối thì cà-ri
cá. Cá biển lừng danh đến nỗi tù nhân đặt cho những tên mỹ miều như: Trần Thị
Lệ Đuối, Lệ Ngừ… Cuối cùng, các loại cá biển nhà tù mang chung tên của một ca
khúc cách mạng: Đàn Ta-Lư. Bởi vì, tù nhân bị ghẻ mà ăn cá ngừ, cá đuối thì gãi
bằng thích. Khi gãi ghẻ, tù nhân bảo gẩy đàn Ta-Lư! Tính tính tính tính tang
tính tình … Đàn em reo vang, đàn Ta-Lư. Vừa gãi ghẻ, vừa nghe danh ca hạng nhất
Hà Nội là em Tường vi hát Đàn Ta-Lư, sẽ giật giật tuyệt cú mèo. Chia cơm ồn ào
gấp bội chia nước sôi. Đôi khi, đấm đá xảy ra giữa các ông tù trộm cướp với các
ông tù mafia. Trưởng phòng giả vờ đui điếc. Báo cáo cán bộ, đêm nó nấu bao
ni-lông, nó đổ vào mắt là mù.
Bữa cơm trưa vừa dứt là kẻng báo ngủ
trưa. Cả phòng im lặng. Không ngủ thì ngồi im lặng. Bây giờ, phòng giam mới là
cái lò nướng bánh mì đúng nghĩa. Nắng hừng hực trên mái tôn. Sức nóng hầm da
thịt. Tù nhân mình trần, quần xà lỏn nằm nghiêng, nằm ngửa trên bục xi-măng. Mồ
hôi tuôn xối xả. Nguyễn Hải Chí thấm ướt cái khăn tắm đặt lên ngực cho mát mà
ngủ. Chừng thức giấc, cái khăn khô rom. Mồ hôi không ra ở ngực, nó ra ở lưng.
Vài tù nhân quên Nội qui, cởi truồng nằm ngửa tênh hênh, ngáy pho pho. Thân
phận con người như những con heo cạo lông phơi bày trên sạp bán thịt. Không
hiểu tại sao tù túng thế, khổ cực thế mà tính dục vẫn chưa bị diệt. Kìa tù nhân
cởi truồng nằm ngửa, khẩu đại bác đang dựng đứng. Và trong giấc mơ hoa ở lò
nướng bánh, hắn đã bắn máy bay, đạn phọt lên! Hắn cựa quậy. Rồi hắn vội lấy
khăn che dấu khẩu đại bác. Tôi ngồi dựa lưng vào tường quan sát. Chẳng biết một
mai sống sót về, tôi có đủ khá năng diễn tả một buổi trưa hè trong một phong
giam ở đề lao Gia Định? Tôi viết về những cuốn sách dính dáng tới nhà tù. Tôi
tưởng tượng. Tôi viết mò. Tôi gian dối với độc giả. Tôi vừa tìm ra cái lý do
văn học của chúng ta thiếu tác phẩm lớn, tác phẩm tầm vóc quốc tế, dù quê hương
chúng ta đầy dẫy đề tài kích thước, để cống hiến cho các nhà vẫn thống lĩnh
đỉnh núi trong suốt ba thập niên cách mạng, thù hận, chiến tranh, giải phóng,
chia lìa, đổ vỡ, lưu đày, đói khổ, ngục tù… Nhà văn lỗi lạc của chúng ta ở miền
Bắc đã bị cưỡng bức sa đọa hóa tư tưởng. Họ đã bị hoàn toàn tê liệt sự rung
động và sáng tạo. Nhà văn lỗi lạc của chúng ta ở miền Nam thì ít sống, sợ sống,
lười sống. Hãy đọc Sống chỉ một lần xem Mai Thảo sống ra sao. Sống loanh quanh
thành phố, lang thang phòng trà, tửu điếm, hộp đêm. Sau một kinh qua vỡ núi lấp
sông của dân tộc, Mai Thảo cứ nhởn nhơ sống theo phong cách đó và thản nhiên
tái bản Sống chỉ một lần. Những tài năng đoạt giải nhất, giải nhì khác? Chưa có
biến chuyển khác lạ. Vẫn nhai lại. Tôi xác định thêm một lần nữa: Tôi chỉ là
người viết tiểu thuyết mưu sinh tầm thường, không đáng kể. Tôi kỳ vọng những
tác phẩm lớn ở những nhà văn lỗi lạc của chúng ta. Không có, vì họ sợ sống. Thế
Phong đã đưa ra một đề nghị lạ lùng: “Muốn có tác phẩm lớn, phải nhờ bọn thống
trị lôi các nhà văn ra bùng binh Chợ Bến Thành, quất roi xuống thân phận họ, họ
sẽ viết.” Có vẻ sa-đích. Mà đúng. Nhà văn của chúng ta thiếu phẫn nộ bởi lánh
xa mọi phẫn nộ của dân tộc. Có kẻ đã thể nghiệm sự phẫn nộ, sự thống khổ của
quê hương đấy. Kẻ ấy giương danh nhà văn chân chính, chê tư tưởng thiên hạ “Cao
hơn giép râu cộng sản”, viết pho sách ngót nghét nghìn trang để chỉ phô diễn sự
“Ăn vụng, ăn cắp, ăn tranh phần cơm heo”. Chẳng nên làm nổi danh kẻ này bằng
cách nêu tên ông ta và tên “tác phẩm để đời” của ông ta. Tôi vừa vỡ lòng cay
đắng, đang nhập môn thống khổ, nhưng tài còm của tôi vẫn khó hứa hẹn diễn tả
nổi một buổi trưa hè trong một phòng giam của đề lao Gia Định. Thật sự mà nói,
muốn có tác phẩm văn học lớn, chúng ta phải chờ đợi các nhà văn trẻ thế hệ sau
1975.
Kẻng báo thức lại khua. Tù nhân lại
ồn ào. Vòi nước đã chuyển qua ô cửa gió. Như buổi sáng, nước đầy hồ rồi thì mỗi
tù nhân có 10 giây tắm, gội không sát xà phòng. Cuộc tắm hà tiện nước của cách
mạng chấm dứt khi vòi nước kéo mạnh ra. Người ta đã nhìn đồng hồ mà ban ân huệ
tắm. Y tá xuất hiện với hai chai thuốc ghẻ xanh và vàng. Xanh là Bleu de
méthylène. Vàng là gì, tôi không rõ. Vàng, nếu tôi đúng, là môn thuốc ghẻ cổ lỗ
sĩ chế bằng diêm sinh và lưu hoàng, mùi hôi khó tả và xức ghẻ thì xót điếng
người. Y tá rót thuốc xanh và vàng vô hai cái lọ thủy tinh mà Trật tự viên có
bổn phận bảo quản. (Nhà tù sợ tù nhân tự sát hoặc sát hại nhau bằng mảnh thủy
tinh). Thêm một hoạt cảnh đề lao. Ghẻ mủ, ghẻ nước, hắc lào đều bôi thuốc xanh,
thuốc vàng. Hai tù nhân bôi thuốc cho nhau. Ghẻ đề lao ranh mãnh lắm. Nó cứ nhè
“của quý’ mà lập chiến khu. Tù nhân nầy cởi truồng, chổng mông để tù nhân nọ
bôi thuốc. Thuốc vừa bồi xong, tù nhân nọ vội lấy quạt quạt lia lịa. Vì thuốc
xót vô cùng. Tù nhân bị bôi thuốc dẩy nẩy. Kẻ nhảy tăng tăng, kẻ quạt lia chia.
Một vũ điệu ngoạn mục của đề lao Gia Định. Chừng hết xót, tù nhân đã được bạn
bôi thuốc sẽ bôi thuốc trả nợ bạn. Và quạt. Bục tù biến thành sân khấu nhảy
múa. Mà người biên soạn vũ điệu ghẻ là cách mạng, là Đảng quang vinh! Có tù
nhân ghẻ tứ tung bèn sơn thuốc xanh khắp mình mẩy và được phong làm chim xanh,
mang tên Mỹ: Mr. Blue Bird. Ông Thế kể đã có tù nhân chết vì … ghẻ, tháng trước,
tại 6C-1. Tù nhân tên Tuấn, trung úy cảnh sát đặc biệt. Anh ta vốn mắc bệnh
phong tình. Vô đề lao, anh bị ghẻ mủ. Anh ta tuyệt vọng, khước từ uống và bôi
thuốc của vợ gửi vào. Anh ta khước từ tắm luôn. Ghẻ ăn chung quanh mắt anh. Nhà
tù mời vợ anh vô thuyết phục anh. Anh vẫn khước từ. Người ta đưa anh vô bệnh
viện Nguyễn Văn Học. Anh chết. Bởi anh tình nguyện chết.
Hoạt cảnh ghẻ hạ màn. Cơm chiều đến.
Cơm chiều giống cơm sáng. Chia chác, ăn uống, rửa ca muỗng xong, tù nhân chơi
đô-mi-nô, cờ tướng, chuyện trò, hút thuốc, nhớ vợ con, mong đợi thả về và chờ
kẻng báo ngủ. Thế đó, trừ những hôm thăm nuôi, mua hàng, họp cuối tuần, sinh
hoạt ở các phòng giam đề lao Gia Định giống hệt nhau. Một ngày như mọi ngày. Cô
đơn trong thống khổ. Rã rượi trong tủi nhục.
(còn tiếp)
Duyên Anh